Trong quá
trình hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có một ham muốn đến tột bậc,
là: “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng
bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Trong Di chúc để lại cho
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trước lúc đi xa, Người mong muốn: “Toàn Đảng,
toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất,
độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế
giới”. Có thể khái quát, khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: nước độc lập,
dân tự do, hạnh phúc, sánh vai với các cường quốc năm châu, “Độc lập - Tự do -
Hạnh phúc”. Đó là khát vọng cháy bỏng trong tâm khảm của Người, truyền cảm hứng
cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, được hiện thực bằng việc xác định đường
lối và thực tiễn trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là trong công cuộc
đổi mới, vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Trên cơ sở dự
báo tình hình, xu hướng phát triển của đất nước và thế giới, Đại hội XIII của Đảng
đề ra mục tiêu cụ thể, gắn với các dấu mốc lịch sử: kỷ niệm 50 năm giải phóng
hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, 100 năm thành lập Đảng và 100 năm
thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Theo đó, Đại hội xác định đến năm 2025: là nước đang phát triển, có
công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm
2030: là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao
và đến năm 2045: trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Thực hiện mục tiêu, tầm
nhìn đó, chính là nhằm hiện thực hóa khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu
về phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, sánh vai với các cường quốc năm
châu. Để biến khát vọng đó thành hiện thực, cần phát huy cao độ ý chí tự lực, tự
cường theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện hiện nay. Đó là sự kết tinh của
bản lĩnh chính trị trên cơ sở nhãn quan đúng đắn, có tinh thần chủ động và ý
chí lớn lao để hành động một cách phù hợp nhằm đạt được mục tiêu. Trong đó, cần
chú trọng một số nội dung sau:
Một là, chủ động
đẩy mạnh hội nhập quốc tế trên tinh thần giữ vững và phát huy bản sắc dân tộc.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xây dựng đất nước sau khi thiết lập chế
độ chính trị mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa hàm chứa tinh thần quảng
giao, Việt Nam muốn “làm bạn với mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một
ai” và “thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để giữ gìn hòa
bình, với tâm thế luôn luôn hướng đạt tình nghĩa bốn biển đều là anh em, tình
nghĩa năm châu bốn biển một nhà; hợp tác quốc tế phải trên cơ sở kết hợp nội lực
với ngoại lực, tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của
nhau, các bên cùng có lợi, giải quyết các mối quan hệ theo các công ước quốc tế.
Hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế diễn ra ngày càng sâu
rộng, muốn đất nước phát triển, thì Việt Nam không thể đứng ngoài quá trình
này. Thế giới càng phát triển, toàn cầu hóa và cạnh tranh càng gay gắt thì sự rủi
ro trên con đường phát triển của mỗi quốc gia càng lớn; trong đó có nguy cơ
đánh mất bản sắc dân tộc. Dự báo đúng điều đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
tăng cường và mở rộng quan hệ quốc tế nhưng giữ vững cốt cách, đặc tính của dân
tộc mình; phải giữ vững và phát huy bản sắc dân tộc; tự lực, tự cường không có
nghĩa là đóng cửa, tự cô lập mình, đồng thời cũng không được phép ỷ lại sự giúp
đỡ của các nước khác, không đánh mất chính mình. Trong bối cảnh tình hình thế
giới rất phức tạp, vừa hợp tác, vừa đấu tranh với sự cạnh tranh gay gắt, với sự
thao túng của các nước lớn trong các mối quan hệ, chỉ có tự lực, tự cường theo
tinh thần “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, song song với đẩy mạnh hợp tác
quốc tế thì đất nước mới phát triển một cách bền vững.
Hai là, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, luôn luôn nhất quán quan điểm: coi nội
lực là yếu tố quyết định, ngoại lực là yếu tố quan trọng. Trong suốt quá trình
phát triển của dân tộc, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước,
Việt Nam phải vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, tiến hành “một cuộc chiến
đấu khổng lồ” để “chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới
mẻ, tốt tươi”. Trước những thay đổi lớn của cục diện thế giới sau khi hệ thống
xã hội chủ nghĩa thế giới sụp đổ, tinh thần tự lực, tự cường của đất nước ta
càng cần được thể hiện rõ ràng hơn. Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh: “một dân tộc
không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng
được độc lập”; khát vọng không có gì quý hơn độc lập, tự do và ý chí phải tự lực
cánh sinh, phải dựa vào sức mình là chính, nội lực là yếu tố có tính chất quyết
định, ngoại lực là yếu tố quan trọng trong sự phát triển bền vững, biến ngoại lực
thành nội lực. Đảng ta xác định đường lối đổi mới đúng đắn, tìm cách đưa đất nước
đi lên một cách phù hợp theo nguyên tắc: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia -
dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật
pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”.
Ba là, ý chí
tự lực, tự cường trong công cuộc đổi mới phải được thể hiện trong tất cả các
lĩnh vực. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cập việc xây dựng thực lực cách mạng Việt
Nam tạo ra sức mạnh tổng hợp từ tất cả các nguồn lực, trong tất cả các lĩnh vực:
chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, v.v. Quá
trình lãnh đạo phát triển kinh tế, nhất là từ khi thực hiện đường lối đổi mới
toàn diện đất nước, Đảng ta luôn quán triệt sâu sắc và thực hiện nhất quán tư
tưởng này của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục
phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ
các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng
là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an
ninh là trọng yếu, thường xuyên”. Nhận thức đó đang biến thành hành động cách mạng,
đang đi vào cuộc sống và đã đạt được những kết quả tích cực. Hiện nay, việc
phát huy sức mạnh tự lực, tự cường của dân tộc cần chú trọng đổi mới về kinh tế
từng bước với đổi mới chính trị; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; bảo
đảm quốc phòng, an ninh vững chắc trên cơ sở xây dựng, củng cố và phát triển thế
trận lòng dân; thực thi chính sách đối ngoại đúng đắn trên cơ sở bảo đảm độc lập,
chủ quyền quốc gia. Đồng thời, tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế vì hòa
bình, độc lập, phát triển, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau để tăng
cường sức mạnh tổng hợp của đất nước, tạo ra thế và lực từ nội tại của tất cả
các lĩnh vực, ở tất cả các ngành, các cấp, bồi đắp năng lực cạnh tranh quốc tế
trong môi trường toàn cầu hóa. Chỉ có như thế, đất nước ta mới phát triển nhanh
và bền vững trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đủ sức tự bảo vệ mình trước
mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch.
Bốn là, có
quyết tâm chính trị cao đi liền với hành động, nói đi đôi với làm để biến khát
vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trở thành hiện thực. Tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh thể hiện rất rõ ý chí quyết tâm của Người trong mọi
công việc và Người đã truyền quyết tâm đó cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
ta. Người khẳng định: “Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập”; “Chúng ta thà
hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô
lệ”; “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội,
Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt
Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi,
nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!”. Có quyết
tâm chính trị cao, chưa đủ, mà cần phải đi liền với hành động. Người căn dặn:
quyết tâm mười phần thì kế hoạch phải hai mươi phần, chớ đem chủ quan của mình
áp vào bắt thực tế phải theo, như “đẽo chân cho vừa giày”. Có nghị quyết đúng
là điều rất quan trọng, nhưng chưa đủ. Có quyết tâm cao cũng là cần nhưng chưa
đủ. Điều cần và đủ là quyết tâm phải đi liền với chương trình, kế hoạch hành động
thiết thực, tỉ mỉ, có tính khả thi, có tổ chức triển khai phù hợp, đáp ứng đủ
các điều kiện thực tế, với sự đồng lòng, dốc sức của toàn Đảng, toàn quân và
toàn dân. Đồng thời, phải quan tâm chăm lo xây dựng, củng cố và phát triển khối
đại đoàn kết toàn dân tộc theo quan điểm: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/Thành
công, thành công, đại thành công”.
Khát vọng chỉ
là khát vọng, nếu không có hành động cách mạng kiên quyết. Do vậy, điều cần nhất
là nói phải đi đôi với làm thì khát vọng mới có khả năng biến thành hiện thực.
Thấm nhuần tinh thần đó, mỗi cán bộ, đảng viên cần phát huy cao độ ý thức,
trách nhiệm, tinh thần cống hiến, lao động sáng tạo, phụng sự Tổ quốc, phụng sự
dân tộc, phục vụ Nhân dân, ra sức thi đua thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của
Đảng, tiếp tục phát triển sự nghiệp cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại,
xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc./.
NMH-H1
0 nhận xét:
Đăng nhận xét