Thực tiễn cho thấy, từ khi Đại hội XIII diễn ra thành công tốt đẹp và
đi vào cuộc sống. Đặc biệt, Đảng ta đã lãnh đạo đất nước thực hiện mục tiêu kép
đó là vừa chống dịch Covid -19 vừa phát triển kinh tế xã hội đạt được nhiều
thành tích tốt, đến nay nước ta đã cơ bản khống chế được đại dịch và chỉ số
kinh tế, đầu tư nước ngoài ra tăng, tỉ lệ bao phủ vắcxin phòng chống Covid -19
đạt trên 90%. Việt Nam là nước chủ nhà Seagame 31 2022 được bạn bè quốc tế đánh
giá cao cả về chất lượng tổ chức và sự hiếu khách của nước chủ nhà. Số lượng
huy chương vàng ta đứng đầu so với các nước tham gia, nhất là hai đội bóng đá nữ
và nam của Việt Nam đã giành ngôi vô địch để lại trong lòng người hâm mộ và cả
dân tộc niềm vui, lòng tự tôn dân tộc và thể hiện sự đoàn kết, ý chí quật cường
vươn lên trong khó khăn, vất vả, gian khổ để giành vinh quang về cho Tổ quốc.
Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện. Quy mô,
trình độ nền kinh tế được nâng lên; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
được cải thiện rõ rệt. Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và
uy tín như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là
niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức,
tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh
và bền vững đất nước.
Trong suốt 35 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn
tượng. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990), mức tăng trưởng GDP
bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4% thì giai đoạn 1991 - 1995, GDP bình quân đã tăng
gấp đôi, đạt 8,2%/năm; các giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao;
giai đoạn 2016 - 2019 đạt mức bình quân 6,8%. Mặc dù năm 2020, kinh tế chịu
ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19 nhưng tốc độ tăng GDP của Việt Nam vẫn
thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu vực, thế giới. Quy mô, trình
độ nền kinh tế được nâng lên, nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ USD/năm thì đến
năm 2020 đã đạt khoảng 268,4 tỷ USD/năm. Đời sống nhân dân cả về vật chất và
tinh thần được cải thiện rõ rệt, năm 1985 bình quân thu nhập đầu người mới đạt
159 USD/năm thì đến năm 2020 đạt khoảng 2.750 USD/năm.
Những nỗ lực đổi mới trong 35 năm qua đã giúp cho môi trường đầu tư
liên tục được cải thiện, nhờ đó đã thu hút ngày càng nhiều hơn vốn đầu tư cho
phát triển. Tính riêng năm 2019, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện
theo giá hiện hành đạt 2.046,8 nghìn tỷ đồng; tổng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) đạt 38,02 tỷ USD, cao nhất trong vòng 10 năm lại đây. Năm 2020,
trong bối cảnh đại dịch Covid-19, Việt Nam vẫn là một điểm đến tin cậy cho các
nhà đầu tư với tổng vốn FDI đạt 28,5 tỷ USD. Ngoài ra, tại Việt Nam đã hình
thành các vùng kinh tế trọng điểm để làm động lực cho phát triển kinh tế vùng,
miền và cả nước; phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp tập trung nhằm thu
hút vốn đầu tư phát triển, đồng thời hình thành các vùng chuyên môn hóa cây trồng,
vật nuôi gắn với chế biến công nghiệp... Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền
kinh tế đều có bước phát triển mạnh mẽ.
Qua 35 năm, từ chỗ thiếu ăn, Việt Nam đã trở thành một trong những nước
xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu của nhiều mặt hàng
nông sản, như cà phê, gạo, hạt điều, rau quả, tôm, gỗ và sản phẩm từ gỗ... luôn
duy trì ở mức cao. Các mặt hàng xuất khẩu khác cũng có bước tiến lớn. Đặc
biệt, trong bối cảnh bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19 khiến hoạt động
thương mại và đầu tư thế giới suy giảm, thì tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng
hóa của Việt Nam năm 2020 vẫn đạt 543,9 tỷ USD, tăng 5,1% so với năm 2019; xuất
siêu 19,1 tỷ USD - cao nhất trong 5 năm liên tiếp xuất siêu kể từ năm 2016. Với
kim ngạch xuất nhập khẩu ấn tượng đã đưa Việt Nam xếp thứ 22 thế giới về quy mô
kim ngạch và năng lực xuất khẩu, đứng thứ 26 về quy mô thương mại quốc tế.
Đặc biệt, năm 2020, Việt Nam cùng lúc đảm nhận 3 trọng trách: Ủy viên
không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN và Chủ tịch
AIPA, trong bối cảnh vô cùng khó khăn của đại dịch COVID-19 và những thiệt hại
nặng nề do thiên tai bão lũ… song Việt Nam đã hoàn thành tốt cả ba trọng trách,
góp phần nâng cao uy tín, vị thế Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Ngày
24 tháng 8 năm 2021 - GDP Việt Nam dự kiến tăng trưởng khoảng 4,8% cho cả
năm 2021, mặc dù nền kinh tế đã ghi nhận kết quả vững chắc trong nửa đầu năm. Dự
báo này, thấp hơn hai điểm phần trăm so với dự báo do Nhóm Ngân hàng Thế giới
đưa ra vào tháng 12 năm 2020, có xét đến tác động tiêu cực của đợt dịch
COVID-19 hiện nay đến các hoạt động kinh tế. Dự báo trên được đưa ra trong ấn bản
mới nhất của Báo cáo Điểm lại - là báo cáo cập nhật kinh tế sáu tháng về tình
hình kinh tế Việt Nam được ra mắt hôm nay - trong đó chỉ ra những nỗi đau kinh
tế liên quan đến đợt dịch COVID-19 bùng phát gần đây. Các biện pháp hạn chế đi
lại của Chính phủ nhằm kiềm chế đại dịch đã có ảnh hưởng đến nền kinh tế trong
nước.
Trong tháng 07, doanh số bán lẻ giảm 19,8% so cùng kỳ năm trước, là mức
giảm lớn nhất kể từ tháng 04 năm 2020, trong khi Chỉ số sức mua hàng (PMI) cũng
giảm đáng kể. Về kinh tế đối ngoại, cán cân thương mại hàng hóa đã chuyển sang
thâm hụt trong vài tháng qua, trong khi các nhà đầu tư nước ngoài phần nào thể
hiện sự thận trọng. Các chuỗi cung ứng và các khu công nghiệp bị gián đoạn do dịch
COVID-19 tái bùng phát diện rộng dường như đã buộc các đơn vị xuất khẩu phải tạm
thời đóng cửa nhà máy hoặc đình hoãn sản xuất.
“Nền kinh tế Việt Nam liệu có phục hồi vào nửa sau năm 2021 hay không?
Điều đó còn tùy thuộc vào kết quả kiểm soát đợt dịch COVID-19 bùng phát hiện
nay, hiệu quả triển khai vắc-xin, và hiệu suất của các biện pháp tài khóa nhằm
hỗ trợ các doanh nghiệp, hộ gia đình bị ảnh hưởng, và để kích thích phục hồi,” theo
lời ông Rahul Kitchlu, Quyền Giám đốc Quốc gia của Ngân hàng Thế giới tại
Việt Nam. “Tuy rủi ro theo hướng suy giảm đã gia tăng, nhưng các yếu tố
căn bản của nền kinh tế Việt Nam vẫn vững chắc và nền kinh tế có thể quay lại với
tốc độ tăng trưởng GDP trước đại dịch ở mức từ 6,5 đến 7% từ năm 2022 trở đi.”
Những thành tựu của công cuộc đổi mới kể trên là kết quả của quá trình
phấn đấu liên tục, bền bỉ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta qua nhiều nhiệm
kỳ đại hội, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, có hiệu quả, kịp thời của Ban
Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy đảng. Đây chính là
tiền đề quan trọng, tạo ra tiềm lực, sức mạnh, niềm tin vào sự phát triển nhanh
và bền vững của đất nước trong tương lai./.
NTP-H8
0 nhận xét:
Đăng nhận xét