Quan điểm gắn thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội đã được Đại hội XIII của Đảng tiếp tục làm rõ trong đánh giá
kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XII và đánh giá chung 10 năm thực hiện
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991
(bổ sung, phát triển năm 2011), 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội 2011 - 2020, 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, 35 năm thực hiện công
cuộc đổi mới; định hướng phát triển và phương hướng, nhiệm vụ phát triển đất
nước trong thời gian tới.
Đảng ta tiếp tục xác định thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội trong tầm nhìn và định hướng phát triển: Tiếp tục
phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ
các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng
là then chốt; phát triển văn hoá là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an
ninh là trọng yếu, thường xuyên... phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh
tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hoá, con người Việt Nam, bồi
dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế đột phá để thu hút,
trọng dụng nhân tài, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và
công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư,
tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển nhanh và bền vững.
Mục tiêu cụ thể: Đến năm 2045, kỷ
niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nay là nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Trong định hướng các chỉ tiêu chủ
yếu về phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025 xác định: Tỉ trọng lao
động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 25%; tỉ lệ lao động qua đào
tạo là 70%; tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị năm 2025 dưới 4%; tỉ lệ nghèo
đa chiều duy trì mức giảm 1 - 1,5% hằng năm; có 10 bác sĩ và 30 giường bệnh/1
vạn dân; tỉ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt 95% dân số; tuổi thọ trung bình đạt
khoảng 74,5 tuổi; tỉ lệ xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới tối thiểu 80%, trong đó
ít nhất 10% đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu.
Về định hướng phát triển đất nước
giai đoạn 2021 - 2030: Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện
đồng bộ thể chế phát triển bền vững... khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo
động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước... phát triển kinh tế
nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; ưu tiên nguồn lực phát triển hạ tầng
nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số... Tạo đột phá trong đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu
hút và trọng dụng nhân tài. Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng mạnh mẽ
thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội... Phát triển con người toàn diện... Quản lý phát triển xã hội có
hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội; xây dựng môi trường văn hoá, đạo đức xã hội lành
mạnh, văn minh; chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, chất lượng dân số,
gắn dân số với phát triển; quan tâm đến mọi người dân, bảo đảm chính sách lao
động, việc làm, thu nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an sinh xã hội. Không
ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
theo quan điểm Đại hội XIII của Đảng thể hiện ở mức độ đạt được về chất lượng
cuộc sống và môi trường sống của nhân dân. Biểu hiện trong quá trình sử dụng
các thành quả kinh tế đã đạt được để cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống
và môi trường sống của con người. Nội hàm của quan điểm trên là mọi người dân
được hưởng cuộc sống vật chất, tinh thần đầy đủ, có khả năng tiếp cận đến các
loại tài sản vật chất, có những hoạt động tinh thần ngày càng phong phú, thỏa
mãn nhu cầu của đông đảo nhân dân, được sống và làm việc trong môi trường lành
mạnh, trong sạch; chất lượng cuộc sống được nâng cao, thực hiện phân phối một
cách đồng đều, thay vì chỉ giới hạn một cách bất hợp lý cho một bộ phận thiểu
số người giàu trong xã hội; con người không bị phân biệt đối xử, với mức độ cân
bằng cần thiết, cao hơn nữa là các quyền và sự tự do của con người trên các
phương diện, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Để đánh giá thành quả của thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội theo quan điểm của Đảng cần thông qua việc
thực hiện nâng cao đời sống dân cư; thực hiện phát triển con người; thực hiện
giảm nghèo và bảo đảm an sinh xã hội; thực hiện công bằng xã hội trong phân
phối thu nhập.
Việc thực hiện nâng cao mức sống
dân cư, phán ánh mức thu nhập thực của bình quân đầu người sau khi loại trừ yếu
tố biến động của Chỉ số giá cả tiêu dùng (CPI), quy mô và cơ cấu chỉ tiêu của
người dân theo các cách phân nhóm chi tiêu khác nhau; thực hiện chỉ số phát
triển con người (HDI) có cuộc sống trường thọ, mạnh khỏe, được hiểu biết và có
được các nguồn lực cần thiết cho một mức sống tốt, đồng thời bảo đảm sự tự do
kinh tế, xã hội, chính trị để con người có được các cơ hội trở thành người lao
động sáng tạo, có năng suất, được tôn trọng cá nhân và được bảo đảm quyền con
người; thực hiện giảm nghèo và bảo đảm an sinh xã hội là yếu tố quan trọng phản
ánh thực hiện tiến bộ xã hội cho nhân dân, có những chính sách toàn diện cho
công cuộc xóa đói, giảm nghèo, giảm nhanh và bền vững tỷ lệ hộ nghèo (HCR), đưa
ra các tiêu chí đánh giá từ nhiều phương diện như sức khỏe, giáo dục, chất
lượng cuộc sống; thực hiện công bằng xã hội thể hiện qua phân phối thu nhập và
cơ hội phát triển, trong đó phân phối thu nhập phản ánh kết quả cuối cùng của
công bằng xã hội, bảo đảm sự bình đẳng trong thu nhập là việc đối xử ngang nhau
đối với các chủ thể có các cơ hội phát triển như nhau. Trên cơ sở các vấn đề
tiến bộ và công bằng xã hội trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác định cụ
thể các chỉ tiêu về các chỉ số đánh giá tiến bộ và công bằng xã hội trong thời
gian tới, đồng thời đề xuất những chủ trương, giải pháp trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 2021 - 2030.
Để thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội, Đại hội XIII của Đảng đã đề cập những vấn đề cần tập trung như giải
quyết tốt chính sách lao động, việc làm và thu nhập; khắc phục những bất hợp lý
về tiền lương, tiền công, trợ cấp xã hội phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội
của đất nước; tập trung triển khai có hiệu quả chương trình xóa đói, giảm
nghèo, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn; huy động mọi nguồn
lực xã hội cùng Nhà nước chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho những người
và gia đình có công với cách mạng. Hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm cạnh
tranh bình đẳng, minh bạch của doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Nâng
cao chất lượng chăm sóc sức khỏe Nhân dân và công tác dân số, kế hoạch hóa gia
đình, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em; bảo đảm quyền cơ bản của trẻ
em, tạo môi trường lành mạnh để trẻ em được phát triển toàn diện về thể chất,
trí tuệ. Xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được
học tập suốt đời.
Như vậy, muốn có tiến bộ và công
bằng xã hội phải thực hiện nhiều giải pháp, có tính khả thi, hữu hiệu. Trong đó
việc hoàn thiện thể chế chính sách về phân phối sản phẩm là nội dung quan
trọng. Do đó, để thực hiện đúng đắn tiến bộ và công bằng xã hội cần phải có
những chủ trương, giải pháp và những con người tương xứng có thể kiểm soát được
lĩnh vực bảo đảm mọi việc được công khai, minh bạch, được giám sát và phản
biện.
NTL-H2
0 nhận xét:
Đăng nhận xét