Nhận
thức về giá trị và hệ giá trị văn hóa, con người Việt Nam là một quá trình gắn
với đổi mới tư duy và tổng kết thực tiễn công cuộc đổi mới đất nước do Đảng
lãnh đạo.
Sau
đại chiến thế giới lần thứ II (1945), xu hướng nghiên cứu các vấn đề văn hóa gắn
với hệ tư tưởng được thay thế dần bằng xu hướng nghiên cứu mới - đặt vấn đề tồn
tại và phát triển văn hóa gắn với hệ giá trị của mỗi dân tộc, quốc gia và vùng
miền. Văn hóa được định hình và phát triển chính là trên cơ sở của sự kiến tạo
hệ giá trị nội tại của chính nền văn hóa đó mà chủ nhân của nền văn hóa ấy
chính là con người hay hệ giá trị con người của dân tộc, quốc gia, vùng đât đó.
Cùng
với quá trình đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã sớm tiếp nhận lý luận về giá
trị, nhận thức ngày càng sâu sắc việc chỉ đạo hình thành, đúc kết, xây dựng hệ
giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) và hội nhập quốc tế sâu rộng. Điều này
đã được thể hiện trong các văn kiện của Đảng từ Đại hội VIII đến nay và một số
nghị quyết chuyên đề liên quan trực tiếp đến văn hóa.
Nhận
thức về giá trị và hệ giá trị văn hóa, con người là một quá trình gắn với đổi mới
tư duy và tổng kết thực tiễn công cuộc đổi mới đất nước do Đảng lãnh đạo. Sau đổi
mới 10 năm (1986-1996), kinh tế nước ta có sự bứt phá đạt được kết quả ngoạn mục,
đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện, mọi người thi đua lao
động sản xuất, làm giàu chính đáng, xóa đói giảm nghèo. Đồng hành cùng sự nghiệp
đổi mới, văn hóa đã không bắt kịp sự tăng trưởng kinh tế. Và, một nghịch lý là
càng đi sâu vào kinh tế thị trường, các hộ dân giàu lên thì trên lĩnh vực văn
hóa càng bộc lộ những biểu hiện tiêu cực, lệch chuẩn, cản trở công cuộc đổi mới
ở mức độ khác nhau. Đó là biểu hiện của lối tư duy cũ nặng bao cấp, chạy theo
cơ chế, tác phong quan liêu, tiểu nông không phù hợp với đời sống công nghiệp,
hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ trong xã hội. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật,
mổ xẻ, phân tích thấu đáo hiện trạng xã hội, Đại hội VIII của Đảng (1996) đã nhận
ra vai trò, vị trí quan trọng của văn hóa và đặt ra vấn đề: “Hình thành hệ giá
trị và chuẩn mực xã hội mới phù hợp với truyền thống, bản sắc dân tộc và yêu cầu
của thời đại”. Với quan điểm chỉ đạo này, lần đầu tiên, Đảng ta đề ra nhiệm vụ
xây dựng hệ giá trị, đòi hỏi các cấp ủy Đảng, chính quyền và đoàn thể xã hội
tăng cường đấu tranh với các biểu hiện tiêu cực, biến chất, tha hóa, nhũng nhiễu
xã hội, cản trở đổi mới; cổ vũ nhân tố tích cực để xây dựng những giá trị và
chuẩn mực xã hội mới nhằm phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đáp ứng
yêu cầu công cuộc đổi mới.
Hai
năm sau, Đảng ban hành Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998) về xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trong đó có
quan điểm: “Văn hóa là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hóa là một sự
nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng”.
Nghị quyết được coi là cương lĩnh văn hóa của Đảng thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH;
là cơ sở pháp lý để cả hệ thống chính trị triển khai, tổ chức thực hiện, tạo sự
chuyển biến tích cực xây dựng đời sống văn hóa, hình thành những giá trị văn
hóa mới. Đó là cuộc đấu tranh không khoan nhượng, lấy cái tích cực, đúng đắn, tốt
đẹp đẩy lùi cái tiêu cực, sai trái, lạc hậu, giáo điều, máy móc, tạo nên nếp
nghĩ, thói quen mới và tình cảm, nhiệt huyết cách mạng để mỗi người đóng góp
trí tuệ, công sức vì sự phát triển toàn diện con người và của xã hội. Đây là một
mặt trận không tiếng súng, chúng ta phải nhận thức sâu sắc tính phức tạp của nó
để không chủ quan, nóng vội, kiên định với mục tiêu đặt ra. Nghị quyết chỉ ra:
“Bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa tốt đẹp của dân tộc, sáng tạo nên những
giá trị văn hóa mới, xã hội chủ nghĩa, làm cho những giá trị ấy thấm sâu vào cuộc
sống toàn xã hội và mỗi con người, trở thành tâm lý và tập quán tiến bộ, văn
minh là một quá trình cách mạng đầy khó khăn, phức tạp, đòi hỏi nhiều thời
gian”.
Tại
Đại hội IX (2001), trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010, Đảng
tiếp tục xác định nhiệm vụ: “Làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư, từng
gia đình, từng người, hoàn thiện hệ giá trị mới của con người Việt Nam, kế thừa
các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của
loài người, tăng cường sức đề kháng, chống văn hóa đồi truỵ, độc hại”. Như vậy,
trong Văn kiện Đại hội IX, Đảng ta đã cụ thể hóa “hệ giá trị và chuẩn mực xã hội
mới” nêu ở Đại hội VIII trở thành “hệ giá trị mới của con người Việt Nam”; đồng
thời nâng mức độ “hình thành hệ giá trị mới” trở thành “hoàn thiện hệ giá trị mới”.
Năm
2004, Đảng ta tiến hành sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa
VIII về văn hóa, ban hành Kết luận Trung ương 10 khóa IX về tiếp tục thực hiện
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII. Kết luận khẳng định: “Các giá trị văn hóa
ngày càng thể hiện rõ hơn vai trò tích cực và khả năng tác động mạnh vào các
lĩnh vực của đời sống. Những nét mới trong chuẩn mực văn hóa và trong nhân cách
con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa từng bước được hình
thành”. Điều đó chứng tỏ công tác chỉ đạo, định hướng xây dựng hệ giá trị văn
hóa, con người Việt Nam đã đi vào cuộc sống. Tuy nhiên, trước đòi hỏi của sự
nghiệp đổi mới, nhất là việc giữ gìn bản sắc dân tộc trong hội nhập quốc tế và
trước sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhân dân, việc xây dựng hệ giá trị văn hóa, con
người Việt Nam chưa tạo được chuyển biến rõ rệt và chưa tương xứng với tăng trưởng
kinh tế, chưa đủ để tác động có hiệu quả đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Từ thực tiễn trên, Kết luận đề ra mục tiêu: “Trong quá trình mở rộng hội nhập
kinh tế quốc tế và giao lưu văn hóa, cùng với việc tập trung xây dựng những giá
trị mới của văn hóa Việt Nam đương đại, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác bảo tồn,
kế thừa, phát huy các giá trị tốt đẹp của truyền thống văn hóa dân tộc và tiếp
nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, bắt kịp sự phát triển của thời đại”.
Mục tiêu này có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao nhận thức và đưa ra
phương pháp tiếp cận xây dựng những giá trị mới của văn hóa Việt Nam, xử lý mối
quan hệ giữa truyền thống và hiện đại. Những giá trị mới của văn hóa Việt Nam
không phải là đoạn tuyệt với quá khứ của văn hóa dân tộc, càng không phải là chối
bỏ không hòa nhập vào dòng chảy của văn minh nhân loại. Xây dựng những giá trị
mới của văn hóa Việt Nam phải trên cơ sở của văn hóa dân tộc, làm cho các giá
trị tốt đẹp của truyền thống văn hóa dân tộc được bảo tồn và phát huy, đồng thời
phải tranh thủ đón nhận tinh hoa văn hóa thế giới phù hợp với bối cảnh, điều kiện
cụ thể của đất nước trong mỗi chặng đường phát triển.
Tại
Đại hội X (2006), Đảng xác định nhiệm vụ cho cả hệ thống chính trị ở nước ta:
“Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập
kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hóa trong thanh niên, học sinh, sinh
viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản
lĩnh văn hóa con người Việt Nam”. Văn kiện đã thể hiện rất rõ tư tưởng chỉ đạo
của Đảng về ba vấn đề cốt lõi trong xây dựng hệ giá trị văn hóa, con người Việt
Nam. Đó là nhân cách con người, bản sắc văn hóa dân tộc và bồi dưỡng các giá trị
văn hóa trong thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước đảm bảo sự thắng
lợi của sự nghiệp cách mạng ở nước ta.
Đến
năm 2011, Đại hội XI nhấn mạnh nhiệm vụ: “Đúc kết và xây dựng hệ giá trị chung
của người Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế”. Như vậy, nhận thức của Đảng về xây dựng hệ giá trị đã có bước tiến mới,
từ chỗ hình thành hệ giá trị mới tới hoàn thiện hệ giá trị mới, nay là đúc kết
và xây dựng hệ giá trị chung đối với con người Việt Nam. Đúc kết nghĩa là trong
thực tiễn xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam đã hiện diện những giá trị
của con người Việt Nam, chúng ta phải tổng kết, rút ra những giá trị chung nhất,
cần thiết cho mỗi con người Việt Nam để các giá trị ấy thúc đẩy sự nghiệp CNH,
HĐH và hội nhập quốc tế.
Năm
2014, sau khi tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về
văn hóa, Đảng ban hành Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển
văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, trong
đó có mục tiêu: “Hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt
Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ,
năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý
thức tuân thủ pháp luật”. Điểm mới ở mục tiêu này là xác định các chuẩn mực giá
trị khi đề cập đến xây dựng các giá trị văn hóa, con người Việt Nam. Bản thân
văn hóa cũng như con người vừa là chủ thể sáng tạo vừa là sản phẩm của văn hóa
trong đời sống hiện thực có rất nhiều biểu hiện giá trị. Từ luận điểm quan trọng
nêu trên, Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI đã định hướng nhiệm vụ xây dựng con
người Việt Nam phát triển toàn diện: “Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và
hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế”.
Hiện
nay, các nhà khoa học xã hội và nhân văn đưa ra nhiều khái niệm về thuật ngữ
giá trị. Dưới góc nhìn xã hội học, M.Robin - Jr.Williams cho rằng: “Một trong
những định nghĩa được chấp nhận rộng rãi hơn trong các tài liệu khoa học xã hội
là coi những giá trị như những quan niệm về “cái đáng mong muốn” ảnh hưởng tới
hành vi lựa chọn… Các giá trị được sử dụng như là những tiêu chuẩn cho sự lựa
chọn khi hành động”. Trần Ngọc Thêm trong chuyên luận “Hệ giá trị Việt Nam từ
truyền thống đến hiện đại và con đường tới tương lai” định nghĩa: “Giá trị là
tính chất của khách thể, được chủ thể đánh giá là tích cực xét trong so sánh với
các khách thể khác cùng loại trong một bối cảnh không gian, thời gian cụ thể”;
tác giả xem xét các giá trị trong mối quan hệ giữa chúng và định nghĩa: “Hệ giá
trị là toàn bộ các giá trị của một khách thể trong một bối cảnh không gian, thời
gian xác định cùng với mạng lưới các mối quan hệ của chúng”.
Định
hướng xây dựng các giá trị cốt lõi trong hệ giá trị văn hóa
Trong
các văn kiện của Đảng liên quan đến văn hóa, chưa thấy ở văn kiện nào của Đảng
ta chỉ đích danh cái này hay cái kia là giá trị của văn hóa Việt Nam. Nhưng nếu
chúng ta thừa nhận giá trị là tiêu chuẩn hướng dẫn hành động, là “tính chất của
khách thể” như đã phân tích ở trên thì việc định hướng xây dựng giá trị văn
hóa, con người Việt Nam đã được Đảng ta đề cập trong nhiều văn kiện.
Ngay
trong thời kỳ Đảng ta chưa giành được chính quyền về tay nhân dân, Tổng Bí thư
Trường Chinh đã soạn thảo “Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943”, đề ra 3 nguyên
tắc vận động của văn hóa Việt Nam: dân tộc hóa, khoa học hóa, đại chúng hóa.
Năm 1951, tại Đại hội II, Đảng ta thông qua “Luận cương cách mạng Việt Nam”,
trong đó có nhiệm vụ: “Xây dựng nền văn hóa dân chủ nhân dân Việt Nam có ba
tính chất: Dân tộc, Khoa học và Đại chúng”. Có thể khẳng định, ngay tại Đại hội
II, Đảng ta đã định hướng xây dựng hệ giá trị văn hóa Việt Nam với ba giá trị cốt
lõi: dân tộc, khoa học và đại chúng.
Từ
thời kỳ đổi mới (1986) đến nay, chúng ta có thể tìm trong các cương lĩnh, nghị
quyết chuyên về văn hóa của Đảng để nhận ra sự định hướng về xây dựng hệ giá trị
văn hóa. V.I. Lênin đã viết: “Cương lĩnh là một bản tuyên ngôn vắn tắt, rõ
ràng, và chính xác nói lên tất cả những điều mà Đảng muốn đạt được và vì mục
đích gì mà Đảng đấu tranh”. Do đó, trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” năm 1991, Đảng ta chủ trương: “Xây dựng nền văn
hóa mới, tạo ra một đời sống tinh thần cao đẹp, phong phú và đa dạng, có nội
dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ”(9). Như vậy, Cương lĩnh năm 1991, Đảng ta đã lựa
chọn ba giá trị cốt lõi định hướng xây dựng nội dung của nền văn hóa nước ta
là: nhân đạo, dân chủ, tiến bộ.
Tại
Đại hội XI (2011), Đảng ta đã ban hành “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011)”, thể hiện chủ
trương, quan điểm: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần
nhân văn, dân chủ, tiến bộ”(10). Nội dung này là một tuyên ngôn rõ ràng về điều
mà Đảng ta muốn và quyết tâm chỉ đạo thực hiện, đó là xây dựng nền văn hóa Việt
Nam kết tinh những tính chất: tiên tiến, dân tộc, nhân văn, dân chủ, tiến bộ.
Đây chính là 5 giá trị cốt lõi của nền văn hóa ở nước ta. Trong đó, giá trị
tiên tiến và tiến bộ thực chất có cùng nội dung hàm chứa tính khoa học và bản
thân tính khoa học - một giá trị văn hóa được nêu trong Đại hội II, đã hàm
nghĩa tiên tiến và tiến bộ.
Năm
2014, Đảng tiến hành tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa
VIII, rà soát lại các quan điểm chỉ đạo về văn hóa và hoàn thiện, bổ sung thành
5 quan điểm nêu trong Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI về văn hóa, con người,
trong đó có quan điểm: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc
trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”.
Chúng
tôi cho rằng các đặc trưng, tính chất của một nền văn hóa mà Đảng ta nêu ra
như: dân tộc, nhân văn, dân chủ, khoa học, thống nhất trong đa dạng chính là những
giá trị cốt lõi Đảng ta chỉ đạo, định hướng xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Định
hướng xây dựng các giá trị cốt lõi trong hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt
Nam
Thế
nào là giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam trong thời kỳ CNH, HĐH và hội
nhập quốc tế? Đây là câu hỏi đặt ra cho các nhà nghiên cứu mà đến nay chưa có lời
giải thỏa đáng. Hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam hôm nay là kế thừa
các giá trị truyền thống tốt đẹp của con người và văn hóa Việt Nam trong lịch sử.
Đề cập đến vấn đề này, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về văn hóa (1998) đã
luận giải: bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh
dựng nước và giữ nước. Nghị quyết cho rằng những giá trị bền vững, những tinh
hoa ấy: “Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết,
ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái,
khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động;
sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống…”. Đó chính là những biểu
hiện của giá trị con người Việt Nam trong lịch sử.
Năm
2013, Ban Chỉ đạo Trung ương tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5
khóa VIII về văn hóa đã tổ chức nhiều cuộc tọa đàm, hội thảo lấy ý kiến của các
nhà quản lý, khoa học đóng góp vào dự thảo Nghị quyết về xây dựng và phát triển
văn hóa, con người. Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI về văn hóa, con người đã có
riêng một quan điểm về xây dựng con người: “Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm
là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính
cơ bản yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo”.
Xây dựng 7 đặc tính của con người Việt Nam: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung
thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo, là định hướng của Đảng về xây dựng các giá trị
cốt lõi trong hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam.
Định
hướng của Đảng về xây dựng những giá trị cốt lõi văn hóa, con người Việt Nam
nêu trên là những giá trị đã hình thành và sẽ hình thành mà Đảng ta muốn nó trở
thành hiện thực, vững chắc trong đời sống văn hóa, xã hội ở nước ta. Còn hệ giá
trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực con người Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH và hội
nhập quốc tế có nội hàm rộng hơn. Ngoài những giá trị định hướng nêu trong các
văn kiện của Đảng, chúng ta còn phải nghiên cứu, đúc rút, đưa thêm những giá trị
văn hóa, con người Việt Nam được hình thành trong lịch sử dựng nước và giữ nước
của dân tộc và cả những giá trị đang được hình thành trong cuộc sống đương đại
ngày nay. Có như vậy, hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực con người Việt
Nam mới đầy đủ, toàn diện./.
THA-H2
0 nhận xét:
Đăng nhận xét