Kể
từ khi chính thức hòa mạng internet vào năm 1997, quan điểm nhất quán của Đảng,
Nhà nước ta là luôn tôn trọng và bảo vệ quyền phát triển của mỗi người dân, quyền
được tự do thông tin, tự do internet. Việt Nam chỉ nghiêm cấm những hành vi lợi
dụng hệ thống kết nối toàn cầu này để gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, vi phạm
đạo đức, thuần phong mỹ tục, đồng thời xác định trong kỷ nguyên số, tự do
internet là một trong những tiền đề quan trọng để phát huy dân chủ và phát triển
kinh tế - xã hội đất nước.
Dù
hòa mạng internet muộn hơn so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới,
tuy nhiên Việt Nam đã thu về nhiều thành tựu vượt bậc về tốc độ phát triển, là
động lực quan trọng để thúc đẩy sự đi lên của Việt Nam trên nhiều lĩnh vực kinh
tế, văn hóa, xã hội, được bạn bè quốc tế ghi nhận và đánh giá cao.
Tuy
nhiên, vì mục đích riêng, vẫn có cá nhân, tổ chức thiếu thiện chí cố tình phớt
lờ mọi nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong bảo đảm quyền con người, quyền tự
do internet, đưa ra những đánh giá phiến diện, định kiến, sai sự thật, bỏ qua
những điểm sáng, mặt tích cực để xếp Việt Nam nằm trong danh sách các quốc gia
không có tự do internet.
Điển
hình là Báo cáo thường niên Freedom on the Net 2022 (Tự do trên mạng 2022) được
tổ chức Freedom House (FH) công bố ngày 18/10/2022, trong đó xếp hạng Việt Nam
là một trong năm quốc gia kém tự do internet nhất trên thế giới.
Đây
không phải là lần đầu tiên FH đưa ra những đánh giá phiến diện, tiêu cực, sai sự
thật về vấn đề tự do, dân chủ tại Việt Nam. Ngày 2/6/2022, tổ chức này đã ra
cái gọi là “Báo cáo bảo vệ nền dân chủ khi sống lưu vong” với nhiều nội dung
xuyên tạc tình hình thực tế của Việt Nam, nổi lên là cáo buộc vô căn cứ “chính
quyền đang tiến hành thực hiện đàn áp xuyên quốc gia nhằm bịt miệng người đấu
tranh ngay cả khi họ rời quê hương”; “tiến hành tấn công mạng vào các tổ chức hỗ
trợ người Việt tị nạn và thúc đẩy nhân quyền”. Vào tháng 3 năm nay, FH cũng xếp
Việt Nam ở vị trí áp chót khu vực Đông Nam Á về mức độ tự do. Nhìn lại quá khứ,
tổ chức này đã 7 lần liên tiếp cho rằng Việt Nam không có tự do internet.
Tự
mô tả mình là “tiếng nói cho dân chủ và tự do trên toàn thế giới”, phương thức
đánh giá, tiêu chuẩn xếp hạng của FH cũng như nhiều tổ chức nhân quyền khác lại
hoàn toàn trái ngược với tuyên bố của họ. Các báo cáo của FH cho thấy tổ chức
này không hề dựa trên các cuộc khảo sát, điều tra xã hội học tại các quốc gia
được xếp hạng mà chỉ thu thập thông tin từ những nguồn thất thiệt, không chính
thống.
Thêm
vào đó, tiêu chí xếp hạng nhân quyền của FH chỉ dựa trên ý chí của một hoặc vài
cá nhân, nhưng không hề có cơ sở khoa học. Thậm chí trong giai đoạn 1970-1988,
nhiều nhà nghiên cứu và báo chí phát hiện ra rằng giám đốc Freedom House,
Raymond Duncan Gastil đã một mình soạn thảo các báo cáo thường niên Freedom in
the World (Tự do trên thế giới) mà không hề có sự trao đổi, bàn bạc với các học
giả, nhà nghiên cứu uy tín.
Trong
bài viết The Politics of Rating Freedom: Ideological Affinity, Private
Authority, and the Freedom in the World Ratings (tạm dịch Chính trị của xếp hạng
tự do: Mối quan hệ tư tưởng, Quyền lực tư nhân và Quyền tự do trong xếp hạng thế
giới) trên tạp chí Perspectives on Politics (thuộc nhà xuất bản Cambridge, Anh)
xuất bản ngày 18/8/2017, học giả Sarah Sunn Bush bình luận: nhiều nhà phê bình
đã nhận thấy sự thiếu sót trong phương pháp luận của Raymond Gastil trong các
báo cáo của FH trước năm 1990.
Sau
khi tổ chức này thuê một nhóm chuyên gia khác thực hiện báo cáo, tình hình có
được cải thiện nhưng FH vẫn vấp phải nhiều sự chỉ trích. Bởi lẽ, các định
nghĩa, phương pháp luận của FH về dân chủ có mối liên hệ chặt chẽ với chính
sách đối ngoại của Hoa Kỳ.
Các
quốc gia đồng minh của Hoa Kỳ thường được FH chấm điểm cao hơn so với các nước
khác. Hơn nữa, theo ghi nhận của Sarah Sunn Bush, báo cáo của FH có ý nghĩa
quan trọng, là nguồn tham khảo với các nhà lập pháp và chính trị gia Hoa Kỳ. Bởi
vậy, các quốc gia yếu thế đang tìm kiếm sự hỗ trợ hoặc ưu ái của Hoa Kỳ buộc phải
có những động thái mỗi khi FH tung ra các báo cáo mới.
Trên
thực tế, không riêng Việt Nam, nhiều quốc gia trên thế giới đã từng gay gắt phản
đối các báo cáo về tình hình nhân quyền của FH như Cuba, Trung Quốc, Nga,
Sudan, Uzbekistan,… Chẳng những vậy, nhiều tổ chức xã hội dân sự tại Hoa Kỳ
cũng thường xuyên lên án FH.
Ngày
16/2/2018, trên website chính thức của mình, tổ chức The Heritage Foundation nhận
định: “Không có lý do gì khiến những người theo chủ nghĩa bảo thủ ở Hoa Kỳ và
khắp phương Tây phải quan tâm đến các báo cáo của Freedom House vì chúng không
khác biệt với những tuyên truyền của Tổ chức Ân xá quốc tế, Tổ chức Theo dõi
nhân quyền hoặc các nhóm bình phong của George Soros (tỷ phú người Mỹ gốc
Hungary, người bị cáo buộc thường xuyên tài trợ cho các tổ chức nhân quyền vì động
cơ chính trị và đảng phái)”.
Tại
Việt Nam, tháng 3/2021, hàng chục nghìn tài khoản facebook đã truy cập vào
fanpage của FH để phản đối tuyên bố “Việt Nam không có tự do internet” do tổ chức
này đưa ra. Trong đó, nhiều người đã thẳng thắn đề xuất FH nên để cho chính người
Việt Nam chấm điểm về tự do trên internet của đất nước mình. Dù vậy, FH đã bỏ
ngoài tai những yêu cầu chính đáng của nhân dân Việt Nam để tiếp tục tung ra
các luận điệu xuyên tạc sự thật qua những báo cáo mới đây.
Cách
đây khoảng ba thập kỷ, việc hòa mạng internet từng là “thử thách rất lớn trong
quá trình đổi mới bởi đây là vấn đề rất nhạy cảm” (theo nhận định của ông Mai
Liêm Trực, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện). Bởi lẽ, quá trình đưa
internet vào Việt Nam không chỉ đòi hỏi sự nâng cấp đáng kể về mặt cơ sở hạ tầng
kỹ thuật, mà còn yêu cầu sự đổi mới tư duy của nhà làm luật.
Tại
thời điểm ấy, còn tồn tại nhiều luồng ý kiến e ngại về việc hòa mạng toàn cầu
có thể dẫn đến nguy cơ gây mất an ninh quốc gia. Mặc dù vậy, trong giai đoạn
1997-2008, bất chấp nhiều khó khăn, thiếu thốn và hạn chế khi mới hòa mạng toàn
cầu, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản chính sách, pháp luật nhằm bảo
đảm và phát huy quyền tự do của người sử dụng dịch vụ internet. Tiêu biểu như
Nghị định số 55/2001/NĐ-CP của Chính phủ ngày 23/8/2001 về Quản lý, cung cấp và
sử dụng dịch vụ internet đã khẳng định không ai được ngăn cản quyền sử dụng hợp
pháp các dịch vụ internet (Điều 9).
Hay
Nghị định số 97/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 28/8/2008 về Quản lý, cung cấp, sử
dụng dịch vụ internet và thông tin điện tử trên internet đưa ra hàng loạt chính
sách phát triển internet quan trọng như: khuyến khích việc ứng dụng internet
trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội để nâng cao năng suất lao động; mở
rộng các hoạt động thương mại; Thúc đẩy việc ứng dụng internet trong các cơ
quan Đảng, Nhà nước, trường học, bệnh viện, các cơ sở nghiên cứu, đưa internet
đến nông thôn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; hỗ trợ cải cách hành
chính, tăng tiện ích xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân và bảo
đảm an ninh, quốc phòng; Tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tham
gia cung cấp và sử dụng dịch vụ internet, tăng cường công tác tuyên truyền,
giáo dục, hướng dẫn pháp luật về internet.
Có
biện pháp để ngăn chặn những hành vi lợi dụng internet gây ảnh hưởng đến an
ninh quốc gia, vi phạm đạo đức, thuần phong mỹ tục, vi phạm các quy định của
pháp luật và để bảo vệ trẻ em khỏi tác động tiêu cực của internet; Phát triển
internet với đầy đủ các dịch vụ có chất lượng cao và giá cước hợp lý nhằm đáp ứng
yêu cầu phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (khoản 1,2,3,4
Điều 4 Nghị định).
Còn
tại Nghị định số 72/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15/7/2013 về Quản lý, cung cấp,
sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng nhấn mạnh người sử dụng
internet có quyền được sử dụng các dịch vụ trên internet trừ các dịch vụ bị cấm
theo quy định của pháp luật (khoản 1, Điều 10).
Bên
cạnh đó, từ quan sát và phân tích sự tăng trưởng về lượng người sử dụng internet
tại Việt Nam và thế giới, các nhà hoạch định chính sách, nhà lập pháp đã nhận
ra mối liên hệ mật thiết giữa quyền tự do trên internet với quyền tự do ngôn luận,
tự do báo chí, quyền riêng tư trên không gian mạng,...
Từ
đây, Quốc hội cùng các cơ quan chức năng đã tổ chức xây dựng các giải pháp pháp
lý phù hợp nhằm bảo đảm các quyền này cũng như phòng, chống, ngăn chặn các hành
vi lợi dụng tự do trên internet gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, vi phạm đạo
đức, thuần phong mỹ tục. Đây là cơ sở để hình thành một hệ thống văn bản pháp
luật tương đối hoàn chỉnh của Việt Nam về internet nói riêng, an ninh mạng nói
chung như: Luật Viễn thông, Luật An toàn thông tin mạng, Luật An ninh mạng,...
Qua
đó, Nhà nước Việt Nam đã xây dựng được một hành lang pháp lý quan trọng, góp phần
tạo ra một môi trường mạng lành mạnh, an toàn, phát huy quyền tự do, dân chủ của
công dân. Song song với quá trình hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật phù hợp
sự phát triển của internet tại Việt Nam, Chính phủ đã phê duyệt hàng loạt đề án
phát triển internet với các chỉ tiêu phát triển cụ thể theo từng giai đoạn.
Theo
Báo cáo mới đây của Bộ Thông tin và Truyền thông, trung bình cứ 100 người dân
Việt Nam có 83 thuê bao internet di động, trong khi thuê bao cố định là 21.
Sách trắng Thương mại điện tử Việt Nam 2022 của Bộ Công thương cho thấy người
Việt dành 6 giờ 38 phút mỗi ngày để truy cập internet. Đây đều là những thống
kê cao hơn mức trung bình của thế giới. Việt Nam cũng nằm trong nhóm các quốc
gia có giá cước internet rẻ nhất thế giới. Hiện tại, Việt Nam có 1.952 trang
thông tin điện tử tổng hợp và 935 mạng xã hội trong nước đã được cấp phép hoạt
động, là những diễn đàn trực tuyến để người dân có thể tự do chia sẻ, bày tỏ
thông tin, quan điểm cá nhân.
Thực
tế nêu trên cho thấy quyền tự do trên internet tại Việt Nam luôn được bảo đảm,
phát huy, trái với luận điệu xuyên tạc của một số cá nhân, tổ chức không thiện
chí. Không những vậy, là một đất nước văn minh, dân chủ, tiến bộ và thân thiện,
Việt Nam luôn sẵn sàng hỗ trợ và tạo điều kiện để các cá nhân, tổ chức quốc tế
có thể tìm hiểu, nghiên cứu một cách trung thực, khách quan về công tác bảo đảm
quyền con người ở Việt Nam, bao gồm quyền tự do trên internet, tự do ngôn luận,
tự do báo chí trên không gian mạng./.
NXĐ_BC
0 nhận xét:
Đăng nhận xét