Một người dân mà có thái độ vô ơn
đã là điều đáng trách. Càng đáng phê phán hơn khi có những người từng mấy chục
năm được “ăn cơm nhà nước, hưởng lộc người dân” nhưng sau khi rời nhiệm sở trở
về cuộc sống đời thường lại nảy sinh tư tưởng tiền hậu bất nhất.
Lợi dụng mạng xã hội (MXH), họ chê
bai đủ thứ về hiện thực đất nước qua lăng kính chỉ toàn màu đen. Thậm chí có
người tự biến mình thành kẻ vô ơn bạc nghĩa trước tấm lòng cao cả của cộng
đồng, tổ chức và chế độ từng nuôi dưỡng, bao bọc, rèn luyện và tạo cơ hội cho
họ thành danh.
Mỗi chúng ta đều nằm lòng câu tục
ngữ “Uống nước nhớ nguồn”. Đây không chỉ là đạo lý truyền thống tốt đẹp của dân
tộc ta được trao truyền từ đời này qua đời khác, mà còn là lẽ sống cao cả, là
tình cảm ân nghĩa thủy chung, là thái độ ứng xử có trước có sau của một nhân
cách văn hóa. Biết trân trọng, ghi nhớ tất cả những gì mà tổ tiên, ông cha đã
tốn bao công sức, trí tuệ và cả xương máu để ươm trồng, vun đắp và tạo dựng cơ
đồ, sự nghiệp cho con cháu hôm nay và mai sau, chính là việc làm ý nghĩa nhất
để góp phần hiện thực hóa đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”.
Lòng biết ơn là một trong những giá
trị phổ quát của đạo đức nhân loại. Cách nay hơn 2.000 năm, Marcus Tullius
Cicero, một trong những triết gia và nhà hùng biện trứ danh thời La Mã cổ đại
từng khẳng định: “Lòng biết ơn không chỉ là đức tính vĩ đại nhất mà còn là khởi
nguồn của mọi đức tính tốt đẹp khác của con người”.
Lòng biết ơn còn là một giá trị
sống, đồng thời là một phương châm ứng xử nhân văn, tinh tế để góp phần làm nên
vẻ đẹp nhân cách của con người. Nhờ có lòng biết ơn của thế hệ sau đối với thế
hệ trước, của hậu duệ đối với tiền nhân, của con cháu đối với ông bà, cha mẹ mà
các thế hệ người Việt Nam đã bồi đắp nên truyền thống văn hóa tri ân “Ăn quả
nhớ người trồng cây”.
Đối lập với lòng biết ơn là sự vô
ơn. Một con người vô ơn thì khó tìm được hạnh phúc đích thực và lương tâm thanh
thản vì trái tim bị thói ích kỷ cá nhân làm cho “rỉ máu”. Vì vậy, trong văn hóa
ứng xử của ông cha ta, những kẻ vô ơn bạc nghĩa luôn bị xã hội phê phán với
thái độ nghiêm khắc. Khi được người khác đối đãi tử tế nhưng bản thân lại đối
xử trở mặt như trở bàn tay là những kẻ ăn mật trả gừng.
Khi hưởng thụ quyền lợi nơi này
nhưng lại ủng hộ, vun vén cho nơi khác là những kẻ ăn cây táo rào cây sung. Khi
đạt được mục đích cá nhân nhưng vội quên ngay người khác giúp đỡ mình là những
kẻ “được chim bẻ ná, được cá quên nơm”. Đáng khinh nhất là những kẻ vô ơn bạc
nghĩa khi thể hiện thói ích kỷ cá nhân đến mức “khỏi vòng cong đuôi”, “qua cầu
rút ván”, “ăn cháo đá bát”...
Một người dân mà có thái độ vô ơn
đã là điều đáng trách. Càng đáng phê phán hơn khi có những người từng mấy chục
năm được hưởng “ăn cơm nhà nước, hưởng lộc người dân” nhưng sau khi rời nhiệm sở
trở về cuộc sống đời thường lại nảy sinh tư tưởng tiền hậu bất nhất.
Lợi dụng MXH chê bai đủ thứ về hiện
thực đất nước qua lăng kính chỉ toàn màu đen. Có người khi đương chức, đương
quyền thì giữ gìn lời ăn tiếng nói, cẩn trọng phát ngôn từng câu, từng chữ để
được tiếng là “khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời”, nhưng khi về hưu lại
biến mình thành “thông tấn xã vỉa hè” bởi ngồi ở đâu, chỗ nào cũng có thể “bàn
loạn” chuyện quốc gia đại sự mà không hề giữ mồm, giữ miệng, thậm chí tùy tiện
nhận xét cán bộ đương chức này kém cỏi, đánh giá cán bộ đương nhiệm khác tài
hèn đức mọn với động cơ thiếu lành mạnh.
Cũng có người từng gắn bó lâu năm
với công việc trọng yếu, bộ phận nhạy cảm trong bộ máy công quyền, lúc hành
nghề thì mang nặng lời thề sống để dạ, chết mang theo, nhưng khi giải nghệ một
thời gian thì không ngại ngần tiết lộ những thông tin gây bất lợi cho việc giữ
gìn đồng thuận xã hội và bảo vệ an ninh tư tưởng văn hóa. Những người như thế
không thể hiện sự nhất quán đối với chính bản thân mình, mà còn ít nhiều bộc lộ
sự vô ơn đối với tổ chức, cơ quan, ngành nghề mình từng nhiều năm công tác.
Thời gian qua, đất nước trải qua
không ít sự cố bởi dịch bệnh, thiên tai hoành hành gây ra biết bao hệ lụy cho
xã hội. Trong những hoàn cảnh khó khăn như vậy, đối với những người yêu nước,
thương dân thật lòng thì không bao giờ kêu ca, than phiền hay bày tỏ thái độ
dửng dưng, vô cảm trước những tổn thất của người dân.
Đáng tiếc có người thời còn giữ
chức vụ lời nói có trọng lượng, nhưng khi về hưu lại mở miệng chê bai, phê phán
cấp ủy, chính quyền thiếu sâu sát, quyết liệt, thiếu thương dân nên mới để dịch
Covid-19 tái phát. Cũng có người một thời sát cánh cùng đồng chí, đồng đội,
đồng bào trong những năm tháng chiến đấu gian khổ, thì nay một phần để cho tư
tưởng công thần lên ngôi, phần khác vì bị lôi kéo, kích động bởi các phần tử cơ
hội chính trị nên không bảo trọng vẹn toàn lời thề kết nạp Đảng năm nào, tự
biến mình trở thành “cái loa” phát ngôn cho những thông tin sai trái, lệch lạc,
làm nhiễu nhương dư luận, gây phân tâm lòng người.
Cách ứng xử như thế cũng là tiền
hậu bất nhất và họ đang tự biến mình thành người vô ơn bạc nghĩa trước tấm lòng
cao cả của cộng đồng, tổ chức và chế độ từng nuôi dưỡng, bao bọc, rèn luyện và
tạo cơ hội cho họ thành danh trước khi rời vị trí công tác xã hội.
Thật ra, xã hội nào, thể chế chính
trị nào cũng luôn khuyến khích, đề cao, ghi nhận những con người công tác trong
bộ máy công quyền giàu lòng cống hiến, hy sinh và luôn mang trong mình văn hóa
tri ân. Bởi vì suy cho cùng, thể chế chính trị là cái nôi, là bệ đỡ cho anh
thành đạt thì dù đang công tác hay khi về hưu thì anh rất nên/cần ghi nhớ, biết
ơn cái nơi cho mình cả danh phận cá nhân lẫn cuộc sống hạnh phúc gia đình.
Dù khi rời nhiệm sở, cán bộ không
còn sở hữu quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước, nhưng không có nghĩa là tự
mình xa rời hay lãng quên tinh thần phụng công, thủ pháp, trách nhiệm công dân
và ý thức nêu gương trước quốc dân đồng bào. Có thể nói rằng, uy lực công quyền
một thời đã tạo thế, tạo danh cho cán bộ lãnh đạo, quản lý thì khi về hưu họ ít
nhiều vẫn được “thơm lây” từ cái thế, cái danh đó.
Cho nên lời nói, phát ngôn, ý kiến
của họ vẫn có trọng lượng nhất định. Do đó, bất cứ một sự thoái thác nào về
danh vị, chức tước của mình một cách không chính đáng, không thiện chí rồi sa
đà vào lối hành xử tiền hậu bất nhất sẽ vô hình trung làm giảm uy tín, thậm chí
làm tiêu tan thanh danh một thời mình dày công gây dựng.
Một trái tim biết đồng cảm với khó
khăn, hoạn nạn của người khác là một trái tim nhân hậu. Một con người biết chia
sẻ với nỗi buồn, đau thương của người khác là một con người giàu tình cảm nhân văn.
Nói rộng ra, khi con người, đặc biệt là cán bộ, đảng viên thể hiện tình cảm,
bổn phận, đạo lý, trách nhiệm đúng lúc, đúng chỗ, đúng mực với cộng đồng, xã
hội, đất nước, chế độ cũng là biểu hiện cao cả của lòng biết ơn.
Lòng biết ơn không tự nhiên sinh ra
mà có, mà cần được giáo dục, trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và giữ
gìn, nâng niu, bảo toàn như một “báu vật” vì lòng biết ơn đã góp phần làm nên
giá trị đạo đức, văn hóa của mỗi con người.
Đối với mỗi cán bộ, đảng viên, thể
hiện lòng biết ơn không chỉ đối với tổ tiên, dòng họ, gia đình, thầy cô, nhà
trường, làng xóm, quê hương-nơi mình sinh ra, lớn lên, học tập; mà cần bền bỉ
duy trì, thực hiện văn hóa tri ân đối với cộng đồng, đất nước, dân tộc, nhân
dân-nơi mình được bao bọc, nuôi dưỡng về thể chất và tâm hồn; đối với tổ chức,
cơ quan, đơn vị và thể chế chính trị-nơi mình được công tác, làm việc, cống
hiến, trưởng thành, có địa vị xã hội và cuộc sống gia đình ổn định, hạnh phúc.
Khi cán bộ, đảng viên chú trọng bảo
toàn nét đẹp văn hóa tri ân của bản thân ở mọi lúc, mọi nơi sẽ góp phần lan tỏa
giá trị đạo đức tốt đẹp trong xã hội, đồng thời đây cũng là một cách phòng ngừa
thói tiền hậu bất nhất và sự dửng dưng, vô cảm-một nguy cơ làm bào mòn tâm hồn,
cốt cách của người cộng sản. Đây cũng là một cách tự phòng ngừa bản thân tránh
rơi vào tình trạng “tự chuyển hóa” về tư tưởng chính trị./.
CXN-H2
0 nhận xét:
Đăng nhận xét