Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và
giữ nước của dân tộc Việt Nam: Từ buổi đầu dựng nước cho đến hôm nay và mãi mãi
về sau là minh chứng cho thấy, chặng đường lịch sử nào của dân tộc cũng có nhân
dân đồng hành và đó là một quy luật lịch sử. Lòng dân là luôn là quốc bảo
thiêng liêng, vô giá, vì thế, không phải tự nhiên Nguyễn Trãi lại nói: “Phúc
chu thủy tín dân do thủy” (lật thuyền mới biết sức dân là sức nước) và cũng
không phải ngẫu nhiên Chủ tịch Hồ Chí Minh lại khẳng định:
“Dễ mười lần không dân cũng chịu,
Khó trăm lần dân liệu cũng xong”[1].
Lịch sử cách mạng Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của Đảng xuyên suốt bề dày 92 năm xây dựng và phát triển đã cho thấy,
với đường lối chính trị đúng đắn và bằng sự gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng
viên trung kiên, Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiền phong của giai cấp và dân tộc
không chỉ nhận được sự ủng hộ rộng rãi của các tầng lớp nhân dân mà còn nhanh
chóng giành được vị thế lãnh đạo/độc quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Từ thực
tế cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
và chống Mỹ, cứu nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, có thể khẳng định rằng: Mọi
thành công của cách mạng Việt Nam chỉ có được khi xuất phát từ lợi ích của nhân
dân, hợp lòng dân và được nhân dân tin tưởng, đồng lòng ủng hộ.
Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã đảm nhận trọng trách lớn lao mà Tổ quốc và nhân dân giao phó, đó là
lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, thực hiện độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Với Cương lĩnh chính trị đúng đắn, phù hợp
điều kiện cụ thể của Việt Nam và xu thế của thời đại, Đảng đã không chỉ hấp dẫn,
quy tụ mà còn lãnh đạo nhân dân Việt Nam/những người đang bị đọa đày trong đêm
trường nô lệ kiên cường vượt mọi khó khăn, thử thách tiến hành thắng lợi cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc, giành lại độc lập, tự do vào mùa Thu năm 1945; tiến
hành thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống Mỹ, cứu nước, giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội
(1945-1975); tiến hành công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng (1986 đến
nay).
Trong hành trình đó, Đảng Cộng sản
Việt Nam “không phải là một tổ chức để làm quan phát tài” và "Đảng ta đại
biểu cho lợi ích chung của giai cấp công nhân, của toàn thể nhân dân lao động,
chứ không mưu cầu lợi ích riêng của một nhóm người nào, của cá nhân
nào"[2]. Vì thế, trải qua 13 kỳ Đại hội, Đảng luôn kiên định con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội; luôn lấy dân làm gốc, coi dân là chủ, đặt quyền lợi dân
lên trên hết thảy trên tinh thần: Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại
cho dân thì phải hết sức tránh. Luôn phụng sự Tổ quốc và Nhân dân, Đảng thường
xuyên "giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng tai nghe ý kiến
của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi”[3].
Trong mọi thời điểm, mọi hoàn cảnh,
Đảng/đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng đều nhận thức rõ: “Nước ta là nước dân
chủ, địa vị cao nhất là dân vì dân là chủ”[4]; “trong xã hội, không có gì tốt đẹp,
vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân”[5] và “Dân làm chủ thì Chủ tịch,
bộ trưởng, thứ trưởng, uỷ viên này khác là làm gì? Làm đày tớ. Làm đày tớ cho
nhân dân, chứ không phải là làm quan cách mạng”[6] để tận tâm, tận sức phụng sự
nhân dân, xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật thật trung thành của
nhân dân. Đồng thời, thấm nhuần sâu sắc lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng
cầm quyền nhưng dân là gốc, dân là chủ, nên đội ngũ cán bộ, đảng viên, cán bộ
lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu từ Chủ tịch nước trở xuống đều gắn bó mật thiết
với nhân dân, dựa vào lòng dân kiên trung để lãnh đạo sự nghiệp cách mạng và tự
soi, tự sửa mình từ sự giám sát, từ những ý kiến đóng góp chân tình, quý báu của
nhân dân.
Xuyên suốt chiều dài lịch sử dân tộc
và lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, lòng dân luôn là nguồn sức mạnh vô địch, được
bồi tụ và hiển hiện đậm nét trong hành trình đấu tranh giải phóng, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; tiếp tục được củng cố vững chắc, kiên
trung trong hành trình đi đến tương lai tươi sáng của dân tộc. Vì vậy, gắn bó mật
thiết với nhân dân, củng cố niềm tin/lòng tin của nhân dân vừa là yêu cầu khách
quan đối với Đảng cầm quyền vừa góp phần để xây dựng và chỉnh đốn Đảng, phòng
và chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong đội ngũ
cán bộ, đảng viên, làm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với vai
trò tiền phong.
Lòng dân là quốc bảo thiêng liêng.
Niềm tin của nhân dân vào Đảng là sức mạnh vô giá. Song các thế lực thù địch,
những phần tử thoái hóa, biến chất, cơ hội, bất mãn đã bẻ cong, xuyên tạc, bịa
đặt, bôi đen Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm gây tâm lý hoang mang, chia rẽ Đảng với
Nhân dân, phá hoại niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Đặc biệt là
trước, trong và sau khi Đại hội XIII diễn ra.
Tuy nhiên, thực tiễn là tiêu chuẩn
của chân lý. Đảng Cộng sản Việt Nam độc quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam hoàn
toàn không phải là sự áp đặt từ phía Đảng mà chính là sự lựa chọn của dân tộc,
sự tin tưởng và "ủy thác" của nhân dân. Thực tiễn cách mạng Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng cho thấy, ở Việt Nam không cần và không chấp nhận chế
độ đa nguyên, đa đảng. Sự thống nhất biện chứng, phù hợp lợi ích giữa Đảng với
nhân dân; giữa Đảng với giai cấp công nhân và dân tộc; mưu cầu và phấn đấu cho
độc lập, tự do, dân chủ, ấm no, hạnh phúc của nhân dân chính là cội nguồn sức mạnh
nội lực của Đảng.
Vì thế, dù nhân danh ai và vì bất
cứ lý do gì thì những luận điệu phản động, những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực
thù địch cũng không thể phủ nhận được vị trí, vai trò của Đảng Cộng sản Việt
Nam đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. 91 năm với 13 kỳ Đại hội, có thể khẳng
định rằng, nội dung các văn kiện của 13 kỳ Đại hội và các nghị quyết chuyên đề
của Đảng Cộng sản Việt Nam đều khẳng định rõ vị trí, vai trò của nhân dân trong
tiến trình cách mạng cũng như trong lịch sử dân tộc.
Quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân, mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đều vì lợi ích
của nhân dân. Tinh thần hành động của mỗi cấp ủy, chính quyền từ Trung ương đến
cơ sở đều nhằm mục tiêu phục vụ nhân
dân, lấy sự hài lòng, niềm tin tưởng của người dân làm thước đo hiệu quả công
tác lãnh đạo toàn diện sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Đó là sự thật, chứ không phải: Sự lãnh đạo của Đảng là "chế độ toàn
trị", "độc tài chuyên chế"… Trong xã hội Việt Nam, "ý chí,
nguyện vọng của người dân cũng chả được chính quyền đếm xỉa đến";
"chính quyền tỏ ra dân chủ để mị dân, họ cưỡng bức, đe dọa kèm theo tuyên
truyền, dùng lợi ích trước mắt để thu phục nhân tâm" như một thông tin sai
lệch trên mạng xã hội.
"Dù ai nói ngả nói nghiêng.
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân". Dù các thế lực thù địch có xuyên tạc
hay bôi đen thế nào lòng dân tin Đảng vẫn là sự thật không thể phủ nhận. Lòng
tin ấy ngày càng được củng cố, được phát huy, bởi mỗi người dân Việt Nam yêu nước,
yêu quê hương, tha thiết với một tương lai tốt đẹp của đất nước, với độc lập -
tự do - hạnh phúc - phồn vinh tất yếu sẽ kiên trung tin tưởng và đi theo Đảng.
Đồng thời, ủng hộ Đảng quyết liệt hơn, sát sao hơn trong công tác xây dựng và
chỉnh đốn Đảng để ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"
trong nội bộ", làm cho Đảng "mạnh khỏe, chắc chắn", trong sạch,
vững mạnh, vững vàng tay lái đưa con thuyền cách mạng Việt Nam đến thành công.
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.280
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.11, tr.607
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr. 326
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.7, tr.434
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.10, tr.453
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.10, tr.572
0 nhận xét:
Đăng nhận xét