Chính sách nhất quán của Việt Nam là tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Từ khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến nay, cả hệ thống chính trị Việt Nam luôn nỗ lực để bảo đảm quyền con người ở mức cao nhất có thể. Năm 1946, bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam ra đời, đánh dấu bước tiến quan trọng về thực hiện dân chủ và quyền con người, quyền công dân tại Việt Nam. Kể từ đó đến nay, tôn trọng và bảo vệ nhân quyền luôn là chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước. Cùng với sự đi lên về mọi mặt của đất nước, những tiêu chuẩn về quyền con người càng được củng cố và phát triển.
Tham
gia và nghiêm túc triển khai các nghĩa vụ, cam kết quốc tế trong lĩnh vực quyền
con người
Hiện
nay, Việt Nam là một trong những nước tích cực, chủ động tham gia vào hầu hết
các công ước quốc tế về quyền con người do Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế
khác ban hành. Tính đến năm 2021, Việt Nam đã phê chuẩn, gia nhập 7/9 công ước
cơ bản của Liên hợp quốc về quyền con người; phê chuẩn, gia nhập 25 công ước của
Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), trong đó có 7/8 công ước cơ bản.
Việt
Nam có những đóng góp tích cực trong việc thành lập Ủy ban liên chính phủ ASEAN
về nhân quyền, Ủy ban ASEAN về bảo vệ và thúc đẩy các quyền của phụ nữ và trẻ
em, thông qua tuyên bố Nhân quyền ASEAN.
Việt
Nam đã đảm nhiệm thành công vai trò thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp
quốc nhiệm kỳ 2014-2016. Nhiều lãnh đạo các nước thời điểm đó ca ngợi tinh thần
trách nhiệm, sự năng động của Việt Nam. Việt Nam đã đóng góp nhiều giá trị vào
sự tiến bộ của nhân loại trong bảo đảm quyền con người.
Với
mong muốn đóng góp hiệu quả hơn nữa vào các nỗ lực chung của thế giới nhằm thúc
đẩy và bảo vệ quyền con người, Việt Nam đã ứng cử làm thành viên Hội đồng Nhân
quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025. Việt Nam là ứng cử viên duy nhất được
ASEAN đề cử.
Gần
10 năm sau nhiệm kỳ đầu tiên tại Hội đồng Nhân quyền, Việt Nam đã có nhiều tiến
bộ vượt bậc trên mọi mặt đời sống xã hội và việc tham gia ứng cử Hội đồng Nhân
quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025 thể hiện quyết tâm, sự chủ động, tích cực
và trách nhiệm của Việt Nam trong thúc đẩy quyền con người ở khu vực và trên thế
giới theo đúng tinh thần Nghị quyết Ðại hội Ðảng lần thứ XIII và Nghị quyết 22
của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế.
Hoàn
thiện hệ thống pháp luật về quyền con người. Để có cơ sở pháp lý thúc đẩy và bảo
vệ, bảo đảm quyền con người, Nhà nước Việt Nam đã có những nỗ lực không ngừng
cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người. Việt Nam
đã xây dựng hệ thống pháp luật quốc gia, trong đó tích cực nội luật hóa các
nguyên tắc, tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người; bảo đảm sự hài hòa giữa pháp
luật quốc gia với pháp luật quốc tế.
Đặc
biệt, Hiến pháp năm 2013 được xem là đỉnh cao trong hoạt động lập hiến về bảo vệ
quyền con người ở Việt Nam, khẳng định sự nhất quán về nội dung quyền con người,
quyền công dân trong các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992; đồng thời, bổ
sung nhận thức mới, đầy đủ, sâu sắc và toàn diện hơn trong việc thể chế hóa
quan điểm của Đảng về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân,
phù hợp với thực tiễn Việt Nam và chuẩn mực quốc tế về quyền con người mà Việt
Nam đã tham gia.
Hiến
pháp năm 2013 gồm 11 chương, 120 điều, trong đó riêng Chương II có 36 điều quy
định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Điều đáng lưu
ý, các nội dung liên quan đến quyền con người không chỉ được quy định trong
Chương II mà còn được đưa vào nhiều chương khác của Hiến pháp nhằm tạo cơ sở
pháp lý cao nhất để mọi người được thụ hưởng, thực hiện và bảo vệ quyền con người
của mình. Khi quy định quyền con người, quyền công dân, các điều của Hiến pháp
xác định rõ “mọi người có quyền ”, “công dân có quyền”, để khẳng định tính pháp
lý của các quyền được Hiến pháp thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ.
Hiến
pháp năm 2013 cùng với các luật, bộ luật được ban hành tạo khuôn khổ pháp lý
cho việc tôn trọng, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người; không chỉ xác lập cơ sở
pháp lý về các quyền của chủ thể hưởng quyền (cá nhân, công dân, các nhóm yếu
thế trong xã hội), mà còn đặt nghĩa vụ cho các cơ quan nhà nước, cán bộ công chức
nhà nước và các tổ chức phi nhà nước (chủ thể nghĩa vụ) phải nâng cao tinh thần
trách nhiệm xã hội, trách nhiệm pháp lý tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con
người. Nhờ đó, thành tựu bảo đảm quyền con người ở Việt Nam trải rộng trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Đảm
bảo các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của mọi đối tượng trong
xã hội.
Trên
lĩnh vực bảo đảm các quyền dân sự, chính trị: các quyền con người đã được bảo đảm
một cách chủ động trong quá trình xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật.
Chẳng hạn, bảo đảm quyền sống, được quy định tại Điều 19 Hiến pháp năm 2013. Pháp
luật quy định trừng phạt nghiêm khắc các hành vi tước đoạt mạng sống của con
người một cách tùy tiện; nghiêm cấm tra tấn nhục hình; chỉ áp dụng án tử hình với
các loại tội đặc biệt nghiêm trọng nhất. Bộ luật Hình sự năm 2015 tiếp tục bỏ
án tử hình ở 8 tội danh; không áp dụng hình phạt tử hình với người dưới 18 tuổi,
phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người đủ 75 tuổi trở
lên khi phạm tội... Việc bảo đảm quyền sống còn được quan tâm về khía cạnh kinh
tế, xã hội thông qua việc thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững; tăng cường
khả năng tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bà mẹ và trẻ sơ sinh; thực
hiện các biện pháp cứu trợ khẩn cấp đối với những vùng chịu thiệt hại nặng do
thiên tai... Trên lĩnh vực bảo đảm các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa: được
thực hiện một cách tích cực trong các chương trình, chính sách quốc gia, như: Bảo
đảm quyền thoát nghèo; quyền về việc làm, thu nhập; quyền sở hữu; quyền được
chăm sóc y tế, sức khỏe; quyền được học tập, giáo dục; quyền được tham gia vào
đời sống văn hóa. So với trước đổi mới, đặc biệt trong khoảng 20 năm trở lại
đây, đời sống của nhiều tầng lớp nhân dân, kể cả ở các vùng đặc biệt khó khăn,
vùng sâu, vùng xa đã được cải thiện rõ rệt; nhiều quyền đã được bảo đảm với các
chi phí phù hợp.
Bảo
đảm quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương, như: Phụ nữ, trẻ em, người
nghèo, người cao tuổi, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số, người có
HIV/AIDS... đã đạt được nhiều kết quả tích cực xét theo các tiêu chí: Tăng cường
mức độ sẵn có của các dịch vụ; khả năng tiếp cận bình đẳng và chất lượng các dịch
vụ, cơ hội; mức độ bao phủ của hệ thống bảo hiểm xã hội; chi phí phù hợp... Kỳ
bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV (nhiệm kỳ 2021-2026), số lượng nữ đại biểu Quốc
hội là 151 người, chiếm 30,26% (đạt tỷ lệ cao nhất từ trước đến nay); tỷ lệ người
dân tộc thiểu số tham gia Quốc hội khóa XV là 89 người, chiếm 17,84%. Từ năm học
2017-2018, đã có 22 tỉnh, thành phố tổ chức dạy học tiếng dân tộc thiểu số (715
trường); 8 ngôn ngữ của dân tộc thiểu số được đưa thành môn học; nhiều bộ sách
giáo khoa được xuất bản bằng tiếng dân tộc thiểu số... Cách tiếp cận tổng thể,
cân bằng đó đã giúp Việt Nam xử lý nhiều thách thức, đạt được nhiều thành tựu
phát triển về mọi mặt kinh tế - xã hội, mà mới đây nhất là trong ứng phó với đại
dịch COVID-19./.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét