Lâu nay, các nước phương Tây thường
rêu rao cái gọi là “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, “quyền lực nhà nước ở một quốc
gia không được đàn áp nhân quyền”. Về thực chất, quan điểm này đã đối lập quyền
con người với chủ quyền. Họ lập luận một cách phi lý rằng, vấn đề quyền con người
không thuộc công việc nội bộ của một nước. Thậm chí, một số nước phương Tây còn
quy chụp rằng “việc Việt Nam nhấn mạnh chủ quyền quốc gia cao hơn tất cả, trên
thực tế là lấy danh nghĩa duy trì chủ quyền quốc gia để duy trì quyền lực thống
trị của Đảng Cộng sản Việt Nam” (!?). Họ còn rêu rao rằng, tuyệt đối hóa tầm
quan trọng của chủ quyền quốc gia là sai lầm (!?) và ngụy biện bằng viện dẫn
báo cáo về an ninh con người của một số tổ chức quốc tế, như Báo cáo phát triển
con người của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP), cũng nhấn mạnh bảo
đảm an ninh cá nhân, mà coi nhẹ, không đề cập đến an ninh quốc gia(2).
Có thể nói, quan điểm “nhân quyền
cao hơn chủ quyền” là hoàn toàn sai trái. Như chúng ta đã biết, quyền con người
không bao giờ tách khỏi điều kiện, trình độ phát triển và chủ quyền của từng quốc
gia - dân tộc. Quan điểm “nhân quyền cao hơn chủ quyền” thực chất chỉ là “bình
phong” che đậy cho các âm mưu mà các nước phương Tây lợi dụng để can thiệp vào
công việc nội bộ, chủ quyền của nước khác. Để nhận diện và bóc trần âm mưu, thủ
đoạn này, cần nhận thức đúng đắn mấy vấn đề sau đây:
Thứ nhất, tôn trọng chủ quyền
của các quốc gia là một tiêu chuẩn đã được cộng đồng quốc tế công nhận, cũng là
cơ sở và tiền đề để thực hiện quyền con người. Nghị quyết 2625 (XXV) của Đại hội
đồng Liên hợp quốc, ngày 24-10-1970, đã đưa ra Tuyên bố về những nguyên tắc của
Luật Quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với
Hiến chương Liên hợp quốc, trong đó khẳng định các nguyên tắc, như nguyên tắc
chủ quyền quốc gia, nguyên tắc bình đẳng chủ quyền của các quốc gia, nguyên tắc
không can thiệp vào các vấn đề thuộc thẩm quyền của các quốc gia khác. Vì vậy,
nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia được áp dụng trong tất cả các lĩnh vực
quan hệ quốc tế, bao gồm lĩnh vực quyền con người. Không có chủ quyền quốc gia,
cũng như không có luật pháp quốc tế, thì không thể nói đến bảo đảm quyền con
người. Quan điểm cho rằng “nhân quyền cao hơn chủ quyền” trực tiếp vi phạm tôn
chỉ và nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc.
Thứ hai, việc thực hiện quyền
con người cần phải dựa vào chủ quyền, do các nước thông qua pháp luật, biện
pháp và cơ chế của nhà nước ở từng quốc gia - dân tộc để thực hiện. Các điều ước
quốc tế về quyền con người đã quy định quyền con người về dân sự, chính trị,
kinh tế, văn hóa và xã hội. Để thực hiện tốt các quyền này, cần phải thông qua
pháp luật quốc gia cũng như cơ chế bảo đảm của pháp luật quốc gia.
Thứ ba, quyền con người không thể
tách rời chủ quyền quốc gia. Quyền con người của cá nhân và chủ quyền quốc gia
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không có chủ quyền thì không thể nói đến quyền
con người, mất đi chủ quyền cũng có nghĩa là mất đi sự bảo đảm đối với quyền
con người.
Thứ tư, quyền con người mang
tính quốc tế, nhưng về bản chất là vấn đề thuộc công việc nội bộ của một quốc
gia. Vì vậy, các nước có quyền căn cứ vào tình hình cụ thể của nước mình để bảo
vệ và thúc đẩy quyền con người.
Thứ năm, so với chủ quyền quốc
gia, quyền con người nằm ở vị trí phụ thuộc. Như chúng ta đã thấy, trong Công ước
quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, chủ quyền quốc gia nằm ở vị trí ưu
tiên. Bởi vì, quyền con người của cá nhân chịu sự quy định, chi phối và chế ước
của pháp luật quốc gia. Đối với các điều ước quốc tế không phù hợp với chế độ
chính trị, cũng như không phù hợp với trình độ phát triển về kinh tế - xã hội,
chính phủ các nước có quyền từ chối tham gia hoặc bảo lưu nhằm tránh việc đảm
nhận nghĩa vụ điều ước có thể gây tổn hại đến chủ quyền quốc gia. Hiện nay, có
khoảng hơn 28 điều ước quốc tế về quyền con người, nhưng Mỹ mới chỉ phê chuẩn 4
điều ước. Đặc biệt, nước này vẫn chưa phê chuẩn một số điều ước cốt lõi về quyền
con người, trong đó có Công ước lao động cưỡng bức năm 1930. Lý do được Mỹ đưa
ra là Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị xung đột với pháp luật
của nước này, và bởi “chủ quyền quốc gia của nước Mỹ cao hơn tất cả”. Điều này
cho thấy, so với chủ quyền quốc gia, quyền con người chỉ ở vị trí phụ thuộc.
Thứ sáu, các quốc gia bất kể lớn
hay nhỏ, giàu hay nghèo đều có quyền tự chủ trong việc lựa chọn chế độ chính trị
và con đường phát triển của mình, các quốc gia khác không có quyền can thiệp.
Hơn nữa, các quốc gia do sự khác nhau về điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội,
văn hóa và sự khác biệt về điều kiện lịch sử nên phương thức bảo đảm quyền con
người có thể khác nhau.
Thứ bảy, việc các nước phương
Tây rêu rao rằng “nhân quyền cao hơn chủ quyền” thực chất xuất phát từ nhu cầu
can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác cũng như thúc đẩy chính trị cường
quyền mà thôi. Trên thực tế, nhân danh “dân chủ nhân quyền”, trong những thập
niên qua, Mỹ và một số quốc gia đã sử dụng vũ lực can thiệp vào công việc nội bộ,
thay đổi chế độ chính trị ở một số nước. Tuy nhiên, thực tế ở các nước sau khi
Mỹ “can dự” cho thấy, cái mang lại cho những quốc gia này không hề là “dân chủ
nhân quyền”, mà là sự xung đột và hỗn loạn. Chính vì thế, quan điểm “nhân quyền
cao hơn chủ quyền” không hề có giá trị đối với việc thúc đẩy quyền con người,
mà trái lại, khiến khả năng xâm hại quyền con người một cách nghiêm trọng hơn.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét