Lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam đã khẳng định một chân lý:
Dựng nước phải đi đôi với giữ nước. Chân lý đó đã trở thành truyền thống quý
báu của dân tộc, đồng thời là một quy luật nội tại của quá trình xây dựng và
phát triển bền vững đất nước. Lúc đất nước yên bình, hiển nhiên là phải tập
trung vào nhiệm vụ dựng nước, chăm lo làm giàu về kinh tế, mạnh về quốc phòng,
bảo tồn được văn hóa dân tộc, xã hội phồn vinh và sẵn sàng, chủ động ngăn ngừa
nguy cơ chiến tranh. “Ngụ binh ư nông” (gửi binh lính ở nhà nông) là một chính
sách đặc sắc của các triều đại Lý, Trần, Lê. Quân chủ lực triều đình không
nhiều, chủ yếu là quân địa phương tập trung theo từng phiên, nuôi quân đỡ tốn
kém, bảo đảm sức lao động cho nông nghiệp, mà khi có chiến tranh, huy động được
tối đa trai tráng cầm súng đánh giặc. “động binh tĩnh dân”, “bách tính giai
binh”, “tận dân vi binh”… là những kế sách độc đáo của cha ông ta để “giữ nước
từ lúc nước chưa nguy”, chăm lo quốc phòng, an ninh, giữ vững chủ quyền, bờ
cõi, răn đe, ngăn chặn các hành vi xâm hại chủ quyền lãnh thổ của đất nước.
Thực tiễn trong quá trình hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam
hàng ngàn năm qua cho thấy, thời đại nào, triều đại nào mà gắn chặt dựng nước
đi đôi với lo giữ nước, “giữ nước từ khi nước chưa nguy”, xây dựng đất nước
theo quan điểm “quốc phú binh cường”, “biên cường quốc thịnh” thì độc lập dân
tộc và chủ quyền lãnh thổ được giữ vững; thời đại nào, triều đại nào không gắn
chặt giữa dựng và giữ nước, không lo giữ nước từ lúc nước chưa nguy, để nước
nghèo, dân đói, xã hội lạc hậu, quốc phòng và an ninh không được củng cố, nội
bộ mâu thuẫn, sẽ tạo ra điều kiện thuận lợi để kẻ thù tiến công xâm lược. Trần
Quang Khải (1241-1294) nhà chính trị, quân sự thời Trần đã từng nói: “Thái bình
tu trí lực. Vạn cổ thử giang sơn” (có nghĩa là: Thái bình nên tu dưỡng trí lực,
vật lực. Đất nước vững nghìn thu). Vua Lê Thái Tổ (1385-1433) căn dặn muôn dân
trăm họ: “Biên phòng hảo vị trù phương lược. Xã tắc ung tu kế cửu an” (có nghĩa
là: Biên phòng cần có phương án, chiến lược tốt. Đất nước phải có kế lâu dài).
Bài học kết hợp chặt chẽ dựng nước đi đôi với lo giữ nước, “giữ nước từ khi
nước chưa nguy” trong lịch sử dân tộc được Ðảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ
Chí Minh phát triển thành tư tưởng chỉ đạo chiến lược, kết hợp giữa kinh tế với
quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, kết hợp giữa kháng chiến với kiến quốc. Đặc
biệt, sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi, cả nước đi lên CNXH
và bước vào công cuộc đổi mới, bài học dựng nước đi đôi với giữ nước, “giữ nước
từ khi nước chưa nguy” của dân tộc được Ðảng ta đưa lên một tầm cao mới. Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991 chỉ rõ: “Xây dựng
CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam.
Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn luôn
nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an
toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng”.
Quan điểm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, “giữ nước từ khi nước chưa nguy”
của Đảng ta được thể hiện rõ nét trong Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về chiến
lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới (Nghị quyết số 28-NQ/TW và được ban
hành vào năm 2013). Trong 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về chiến
lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới vừa qua, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
ta đã phát huy tinh thần yêu nước, đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, đạt được những
thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật. Đất nước ta
chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.
Chúng ta đã giữ vững được thế chủ động chiến lược, không để bị động, bất ngờ;
khôn khéo, mềm dẻo, linh hoạt trong xử trí các tình huống, ngăn ngừa nguy cơ
xung đột, nhất là các tình huống trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo; đề
xuất rất sát những chủ trương, đối sách, giải pháp cơ bản, lâu dài; trước những
tác động, ảnh hưởng của tình hình thế giới đối với quân đội và giải pháp xây
dựng quân đội trong tình hình mới, nhất là xây dựng nhân tố chính trị, tinh
thần cho cán bộ, chiến sĩ. Xây dựng tiềm lực kinh tế của nền quốc phòng toàn
dân theo định hướng XHCN, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; giữ
vững độc lập, tự chủ trong mở rộng hợp tác kinh tế; phát triển kinh tế nhanh, bền
vững, tăng lượng dự trữ quốc gia; gắn phát triển kinh tế với bảo đảm tiến bộ,
công bằng xã hội, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chất lượng nguồn
nhân lực, sẵn sàng huy động các nguồn lực cho quốc phòng. Tích cực, chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế,
bảo đảm không phụ thuộc vào một thị trường, một đối tác cụ thể; chủ động ứng
phó hiệu quả với tác động tiêu cực, gây sức ép thông qua kinh tế từ bên ngoài.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định:
“Chủ động ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa… Có kế sách
ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa,
phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong
có thể gây ra đột biến”. Phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII vào
tháng 10-2023, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Trong 10 năm thực
hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới vừa qua, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã phát huy tinh thần yêu
nước, đoàn kết, nỗ lực phấn đấu đạt được những thành tựu rất quan trọng, khá
toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ,
tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét