Trong các diễn đàn góp ý sửa đổi Luật Đất đai nhiều năm nay, xuất hiện một số ý kiến cho rằng nên thừa nhận sở hữu tư nhân về đất đai hoặc thừa nhận chế độ đa sở hữu giống như nhiều nước khác. Một số người phê phán chế độ sở hữu toàn dân về đất đai. Họ cho rằng sở hữu toàn dân là “mù mờ vì về mặt pháp lý”, không xác định được ai là chủ sở hữu trong các quan hệ đất đai, nhất là khi xảy ra tranh chấp. Một số khác cho rằng, với các quyền của người sử dụng đất như Luật Đất đai năm 2013 quy định, quyền sử dụng đất chẳng khác gì quyền sở hữu tư nhân đất đai, tại sao không công nhận đó là sở hữu tư nhân về đất đai (?)
Những quan điểm, ý kiến nêu trên
là hoàn toàn sai lầm xuất phát từ các vấn đề sau:
Thứ nhất, tư hữu về đất đai, về
lý thuyết có thể khuyến khích tư nhân bảo vệ quyền tài sản đối với đất đai và tạo
điều kiện thuận lợi tối đa cho thị trường đất đai điều tiết các diện tích đất tới
các chủ thể và ngành, nghề sử dụng đất theo tiêu chí ưu tiên hiệu quả sử dụng đất
cao nhất. Tuy nhiên, sở hữu tư nhân về đất đai có nhiều điều kiện bất lợi cho
Việt Nam ngay cả khi chưa xét đến yêu cầu định hướng xã hội chủ nghĩa.
Điều bất lợi thứ nhất là sở hữu
tư nhân về đất đai trong điều kiện kinh tế thị trường sẽ dẫn đến tình trạng
phân hóa giàu nghèo khiến người sở hữu quá nhiều đất, người không có tấc đất cắm
dùi, nhất là tình trạng đầu cơ đất nông nghiệp của người giàu nhằm bảo vệ tài sản
của họ dưới hình thức là sở hữu đất. Đặc biệt, những người giàu sở hữu nhiều đất
và không trực tiếp canh tác, vì họ có cơ hội làm giàu tốt hơn ở chỗ khác, sẽ quản
lý đất đai bằng chế độ phát canh thu tô, phục hồi quan hệ sản xuất phong kiến.
Trong điều kiện một lực lượng lao động lớn còn sống bằng nghề nông thì việc tập
trung đất vào một số người sẽ khiến số đông người còn lại, hoặc là phải làm
thuê, cuốc mướn, hoặc là trở thành người vô gia cư, nghèo đói trong các khu ổ
chuột ở thành thị. Chế độ sở hữu gì cũng phải hướng vào mục đích tạo nguồn mưu
sinh cho người dân và ổn định xã hội. Không thể hy sinh lợi ích của số đông người
chỉ để có một chế độ sở hữu như các nước khác. Một số người không đồng ý với lập
luận này và dẫn chứng thực tế phát triển nông nghiệp ở Anh, Pháp, Mỹ không dẫn
đến phân hóa giàu nghèo ở nông thôn. Họ không nhớ rằng các nước này đã hoàn
thành quá trình công nghiệp hóa, thời kỳ đẩy người dân ra khỏi nông nghiệp để
tích tụ đất vào tay một số ít hộ làm nông nghiệp như hiện nay đã trở thành quá
khứ xa xưa. Hơn nữa, các nhà nước tư bản Anh, Pháp, Mỹ hiện vẫn phải hỗ trợ thu
nhập cho nông dân để hộ nông dân có thu nhập ngang mức trung bình của xã hội nhằm
khuyến khích họ trực canh đất nông nghiệp vừa bảo đảm an ninh lương thực, vừa
không quay trở lại quan hệ sản xuất phong kiến. Việt Nam chưa hoàn thành quá
trình công nghiệp hóa, số dân sống bằng nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong
dân số và Việt Nam hiện không đủ nguồn lực để hỗ trợ nông dân có thu nhập ngang
mức trung bình của xã hội. Vậy nên, thừa nhận sở hữu tư nhân sẽ hứa hẹn một xu
hướng khó khăn cho phát triển nông nghiệp, chưa kể sẽ làm cho phân hóa giàu
nghèo ở nông thôn diễn ra mạnh mẽ hơn. Trong khi tuyên bố chế độ sở hữu toàn
dân về đất đai với việc xã hội cam kết bằng pháp luật việc trao cho người sử dụng
đất quyền sử dụng và hưởng lợi từ tài sản quyền sử dụng đất không khác quyền sử
dụng của chủ sở hữu là bao. Hơn nữa, hạn chế về thời hạn giao đất, quy mô giao
đất và không được chuyển đổi mục đích sử dụng đất cũng không phải hạn chế quá lớn
đối với người sử dụng đất so với chủ sở hữu tư nhân. Đồng thời, chế độ sở hữu
toàn dân dành quyền chi phối của xã hội thông qua Nhà nước đối với các quyền bảo
đảm lợi ích chung, như quy hoạch sử dụng đất, có thể kéo dài thời gian giao đất
và tiếp tục giao đất khi hết thời hạn giao đất nếu người sử dụng đất không vi
phạm pháp luật và mục đích sử dụng đất không thay đổi theo quy hoạch. Với bản
chất xã hội chủ nghĩa, Nhà nước Việt Nam có thể sử dụng quyền chủ động của mình
để bảo vệ tốt hơn lợi ích của người trực tiếp sử dụng đất.
Điều bất lợi thứ hai là xáo trộn
quan hệ sở hữu, sử dụng đất đai hiện tại mà không đem lại lợi ích cho người sử
dụng đất cũng như quốc gia. Lịch sử quan hệ đất đai ở Việt Nam khá phức tạp.
Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đa phần diện tích đất nông nghiệp thuộc sở
hữu của địa chủ, tư bản. Sau cải cách ruộng đất, đa phần đất nông nghiệp được
chia cho nông dân. Phong trào hợp tác hóa đã đưa hầu hết diện tích đất nông
nghiệp thành sở hữu chung của xã viên hợp tác xã. Quá trình giao đất theo Nghị
quyết số 10-NQ/TW, ngày 5-4-1988, của Bộ Chính trị khóa VI, “Về đổi mới quản
lý kinh tế nông nghiệp”, đưa trở lại quyền sử dụng đất cho hộ nông dân
theo chế độ bình quân. Bây giờ, nếu thừa nhận sở hữu tư nhân về ruộng đất sẽ phục
hồi lại các vụ kiện tụng về quyền sở hữu của họ do chính Nhà nước thừa nhận trước
khi vào hợp tác xã. Những rắc rối pháp lý này sẽ khiến quan hệ đất đai trở nên
rối loạn, nguồn lực đất đai, nguồn lực quan trọng nhất của Việt Nam lúc này, sẽ
có thể không được phát huy phục vụ phát triển kinh tế. Hơn nữa, sở hữu tư nhân
về đất đai sẽ dẫn đến tình trạng mâu thuẫn lợi ích giữa những người được giao đất
và đương nhiên trở thành chủ sở hữu đất với những người không được giao đất và
chẳng được gì, nhất là các khu đất vàng. Chỉ với việc Nhà nước thu hồi đất và đền
bù cho người dân với giá rẻ, giao đất cho chủ đầu tư khu đô thị với giá rẻ, sau
đó chủ đầu tư bán lại cho người tiêu dùng với giá cao đã gây không ít cuộc kiện
tụng, khiếu kiện thời gian qua. Nếu bây giờ làm lại cuộc cải cách ruộng đất lần
nữa, xã hội sẽ dẫn tới mâu thuẫn lợi ích, đẩy mọi người vào tình trạng đối lập
nhau. Đất đai, vốn dĩ là tài sản của quốc gia - dân tộc, là công lao khai phá,
bảo vệ, cải tạo, xây đắp của bao thế hệ người dân Việt Nam, giữ ở lớp thứ nhất
của chế độ sở hữu toàn dân tộc có hại gì đâu. Bất kỳ một chế độ sở hữu đất đai ở
bất kỳ nước nào cũng phải kế thừa và giải quyết các kết quả của quá trình phát
triển lịch sử của nước đó. Không thể áp đặt chế độ sở hữu chung chung về mặt lý
thuyết cho một nước cụ thể. Càng không thể áp dụng máy móc kinh nghiệm của các
nước khác biệt về chế độ chính trị và trình độ phát triển vào Việt Nam. Ngoài
ra, thị trường đất đai vốn không hoàn hảo. Quy hoạch đất đai không những bảo đảm
an ninh lương thực quốc gia mà còn là công cụ bố trí hợp lý không gian và đạt
hiệu quả tổng thể sử dụng đất cao nhất cả trong ngắn và dài hạn. Sở hữu toàn
dân là điều kiện thuận lợi cho thực thi và tuân thủ quy hoạch đất đai.
Việc bảo đảm định hướng xã hội chủ
nghĩa đòi hỏi tư liệu sản xuất quan trọng nhất phải được duy trì là tài sản
chung của mọi người, giao cho đại diện lợi ích chung là Nhà nước Việt Nam đảm
nhiệm vai trò đại diện chủ sở hữu trong các quan hệ pháp lý và quản lý thống nhất.
Hơn nữa, đất đai không phải đối tượng sở hữu tư nhân một cách tuyệt đối. Bản
thân đất đai là môi trường sống chung, là “vật” không thể ngăn cấm hoàn toàn
người không phải chủ sở hữu tiếp cận đất, nên ngay ở các nước thừa nhận sở hữu
tư nhân về đất đai, Luật Đất đai vẫn quy định chủ đất phải cho phép người khác
có quyền thông hành địa dịch, phải tôn trọng quyền của các chủ đất liền kề
trong sử dụng đất đai, phải đóng thuế sử dụng đất, người chủ đất có quyền hạn
chế về độ cao, độ sâu của thửa đất...
Thứ hai, quan điểm ủng hộ chế độ
đa sở hữu về đất đai ở Việt Nam. Thực chất đây là quan điểm ủng hộ sở hữu tư
nhân về đất đai. Vì đa sở hữu có nghĩa là sở hữu tư nhân, sở hữu của tập thể
(pháp nhân, các tổ chức chính trị, xã hội, ngành, nghề), sở hữu của cơ quan nhà
nước (các cơ quan khác nhau trong bộ máy chính quyền các cấp). Trong các nước
duy trì chế độ sở hữu tư nhân về đất đai, đa phần diện tích đất ở và đất kinh
doanh thuộc sở hữu tư nhân. Các tổ chức chính trị, xã hội, ngành, nghề có thể
mua đất làm trụ sở hoặc kinh doanh tùy ý. Những diện tích đất do tổ chức nhà nước
sử dụng và đất công (dùng chung như đường sá, công viên, rừng, hồ nước...) thuộc
sở hữu của cơ quan nhà nước hoặc sở hữu quốc gia. Như vậy, đa phần diện tích đất
kinh doanh, nhất là đất nông nghiệp thuộc sở hữu tư nhân. Vậy nên, việc phê
phán quan điểm này chẳng khác gì phê phán quan điểm ủng hộ sở hữu tư nhân về đất
đai.
VHL-H3
0 nhận xét:
Đăng nhận xét