Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nói: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới
sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở
và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn
hóa”.
Vǎn hóa Việt
Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ
vang của dân tộc. Nền văn hóa này là thành quả hàng ngàn năm lao động sáng tạo,
đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của dân tộc; là kết quả giao lưu và
tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới không ngừng hoàn thiện mình.
Đất tụ khí thiêng, nước hòa long mạch. Trong huyết quản người Việt luôn lưu chảy
dòng máu Lạc Hồng. Hướng về cội nguồn tổ tiên, người dân Việt Nam luôn biết
cách ứng xử, tri ân nghĩa tình sau trước, nhân văn với tổ tiên “Hàng năm ăn đâu
làm đâu/Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ…”.
Sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam ngày 03/02/1930 đã tạo một bước ngoặt quyết định cho lịch sử
cách mạng Việt Nam và cũng là cái mốc quan trọng xác lập sự hình thành đường lối
văn hóa của Đảng. Trong đường lối xây dựng, phát triển đất nước, Đảng ta đặc biệt
chú trọng tới lĩnh vực phát triển văn hóa và coi việc xây dựng và phát triển
văn hóa là một trong những nhiệm vụ quan trọng của cách mạng Việt Nam. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng, gần 92 năm qua, nền văn hóa nước nhà đã có những bước chuyển
biến quan trọng, đạt được nhiều kết quả và những thành tựu đó đã có đóng góp to
lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Đường lối văn
hóa của Đảng gắn với sự ra đời và khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam trong tiến trình lịch sử cách mạng. Đó là hệ thống các mục tiêu, đường
lối, chủ trương, quan điểm chỉ đạo, nhiệm vụ, giải pháp được xây dựng nhằm xác
định, phát triển nền văn hóa dân tộc phù hợp với từng thời kỳ cách mạng. Đường
lối văn hóa đúng đắn là nhân tố quan trọng góp phần quyết định thắng lợi của
cách mạng, quyết định vị trí, uy tín của Đảng đối với dân tộc, quốc tế. Đường lối
văn hóa của Đảng được triển khai thông qua các nghị quyết, văn kiện, chỉ thị…
Trong quá trình lãnh đạo lĩnh vực văn hóa qua các gia đoạn lịch sử, tùy theo phạm
vi, thời gian, những yêu cầu cấp bách mà đường lối văn hóa của Đảng phân theo
các cấp độ khác nhau, như: Đường lối văn hóa trong thời kỳ cách mạng dân tộc –
dân chủ, thống nhất với lịch sử đấu tranh cách mạng, giải phóng dân tộc, giải
phóng con người khỏi ách áp bức bóc lột, đánh đuổi kẻ thù xâm lược; đường lối
văn hóa đường lối văn hóa trong thời kỳ cách mạng XHCN; đường lối văn hóa trong
thời kỳ trước và sau đổi mới; đường lối văn hóa trong các lĩnh vực giáo dục –
đào tạo, văn học - nghệ thuật, khoa học – công nghệ, đạo đức, lối sống…
Tháng 2/1943, Tổng
Bí thư Trường Chinh đã khởi thảo Đề cương văn hóa Việt Nam với ba quan điểm của
Đảng về vấn đề văn hóa: Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế,
chính trị, văn hóa); Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm
cách mạng văn hóa; Có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới ảnh hưởng được
dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới hiệu quả. Đề cương nêu ba nguyên tắc vận
động của cuộc vận động văn hóa mới Việt Nam trong giai đoạn này, đó là: Dân tộc
hóa, Khoa học hóa và Đại chúng hóa. Đề cương văn hóa đã thu tóm được những vấn
đề cơ bản của văn hóa Việt Nam dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin; là đỉnh
cao trí tuệ đương thời; là nhận thức sắc bén về tình hình, là dự báo khoa học về
tương lai. Đây là cương lĩnh đầu tiên và tương đối hoàn chỉnh của Đảng trên mặt
trận văn hóa. Kết quả của các cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại là minh chứng
hùng hồn đầy sức thuyết phục cho nền văn hóa Việt Nam đã phát huy cao nhất truyền
thống yêu nước, chống ngoại xâm và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc.
Đề cương văn
hóa ra đời đã tạo tiền đề Hội Văn hóa cứu quốc thành lập tháng 4/1943 hoạt động
bên cạnh các tổ chức cứu quốc khác của Mặt trận Việt Minh. Hội đã tập hợp đông
đảo các nhà văn hóa, văn nghệ sĩ yêu nước tiến bộ, như: Học Phi (Chủ tịch),
Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi, Thép Mới...
Việc thành lập một tổ chức của những người yêu nước làm cách mạng, tiến bộ là
nét mới trong đường lối văn hóa của Đảng. Thực hiện Đề cương văn hóa Việt Nam,
ngày 11/6/1943, Hội Văn hóa cứu quốc ra tờ báo Tiên Phong (ban đầu có tên là Tiền
Tuyến) làm cơ quan ngôn luận với trách nhiệm “kịch liệt chống những xu hướng
văn hóa đầu cơ, xu nịnh, thoái hóa” và “kiến thiết một nền văn hóa mới với mục
đích phụng sự độc lập tự do và hạnh phúc của dân tộc”…
Nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa vừa ra đời đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn, thách thức
do chế độ thực dân phong kiến để lại: sản xuất đình đốn, nạn đói hoành hành, gần
2 triệu người chết đói, hơn 90% dân số mù chữ, tài chính quốc gia trống rỗng,
giặc ngoại xâm lăm le… Trước tình hình đó, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã nâng dân tộc
mình lên một tầm văn hóa mới. Văn hóa không tách khỏi sự nghiệp cách mạng. Quán
triệt tư tưởng của Đề cương văn hóa, Người đề ra khẩu hiệu “Kháng chiến hóa văn
hóa và văn hóa hóa kháng chiến”. Cả ba thứ giặc: giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại
xâm đều nguy hiểm như nhau và nhiệm vụ của người cộng sản là phải tiêu diệt cả
ba thứ giặc đó.
Năm 1946, tình
thế cách mạng Việt Nam như “ngàn cân treo sợi tóc”, thực dân Pháp gây hấn, ngày
24/11/1946 Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất vẫn được tổ chức tại Nhà hát
Lớn (Hà Nội). Hơn 200 đại biểu là các nhà hoạt động văn hóa trên toàn quốc và đại
diện Chính phủ, Quốc hội tham dự hội nghị đóng góp nhiều ý kiến quý báu. Do
tình thế quân sự khẩn trương ở Hải Phòng và Hà Nội, Hội nghị chỉ họp trong ngày
trước khi rời Hà Nội, lên Việt Bắc chuẩn bị cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp. Trong diễn văn khai mạc Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định sức mạnh
của văn hóa “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”. Người chỉ rõ nhiệm vụ của
nền văn hóa mới là phục vụ sự nghiệp đấu tranh của dân tộc, hạnh phúc của nhân
dân. Nền văn hóa mới phải kế thừa những giá trị tốt đẹp của văn hóa truyền thống
và mang những tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng. Hội nghị lần thứ nhất đã
đặt cơ sở cho việc xây dựng nền văn hóa mới của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Xem thói quen
và những truyền thống lạc hậu là một loại kẻ thù, năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí
Minh viết tác phẩm “Đời sống mới”, phát động phong trào Đời sống mới, xây dựng
và phát triển những thuần phong, mỹ tục mới trong nhân dân; mỗi ngành, mỗi giới
đều có phong trào riêng của mình. Người đã có cách nhìn biện chứng, sâu sắc về
mối quan hệ giữa cái “cũ” và cái “mới” trong xây dựng đời sống mới: “Không phải
cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu, thì phải
bỏ... Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp
lý... Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm... Cái gì mới mà hay, thì ta
phải làm”.
Từ 16/7 đến
20/7/1948, Hội nghị Văn hoá toàn quốc lần thứ hai diễn ra tại Phú Thọ. Các đồng
chí Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương chủ trì Hội nghị. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã gửi thư chúc mừng Đại hội. Toàn văn bức thư của Người đã được đọc trân
trọng tại lễ khai mạc Hội nghị Văn hoá toàn quốc lần thứ hai vào sáng ngày
16/7/1948. Người động viên và kêu gọi tri thức, các nhà hoạt động văn hoá văn
nghệ tích cực tham gia đóng góp cho sự nghiệp kháng chiến kiến quốc, trong
phong trào thi đua ái quốc của toàn dân tộc và nhấn mạnh “Trong sự nghiệp vĩ đại
kháng chiến kiến quốc của dân tộc ta, văn hóa gánh một phần quan trọng…Song từ
nay trở đi chúng ta cần phải xây đắp một nền văn hóa kháng chiến kiến quốc của
toàn dân”. Đồng thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định nhiệm vụ của văn hoá là “chẳng
những để cổ động tinh thần và lực lượng kháng chiến kiến quốc của quốc dân, mà
cũng phải nêu rõ những thành tích kháng chiến kiến quốc vĩ đại của ta cho thế
giới. Các nhà văn hoá ta phải có những tác phẩm xứng đáng, chẳng những để biểu
dương sự nghiệp kháng chiến kiến quốc bây giờ, mà còn để lưu truyền cái lịch sử
oanh liệt kháng chiến kiến quốc cho hậu thế”.
Ngày 18/7/1948,
Tổng Bí thư Trường Chinh đã trình bày báo cáo “Chủ nghĩa Mác và văn hoá Việt
Nam”. Báo cáo tập trung vào ba ý tưởng: tuyên truyền chủ nghĩa Mác vào Việt
Nam; xây dựng đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ mới của nước nhà; xây dựng nền văn
hoá văn nghệ Việt Nam mới, cùng đồng nghĩa với xây dựng nền văn hiến mới của nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà. Báo cáo chỉ rõ tính chất, nhiệm vụ của nền văn hóa
dân chủ mới ở Việt Nam “Mục đích của những người làm công tác văn hóa chúng ta
là phải thắng địch, giữ nước, làm cho dân mạnh, dân tiến, dân tin, dân vui; là
chống văn hóa nô dịch, ngu dân của thực dân Pháp, khắc phục những tư tưởng
phong kiến, lạc hậu trong văn hóa nước nhà; là xây dựng một nền văn hóa dân chủ
mới Việt Nam hội đủ ba tính chất: dân tộc, khoa học, đại chúng...”. Đây là một
văn kiện hoàn chỉnh đầu tiên của Đảng ta về trí thức và văn hoá văn nghệ Việt
Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam, nền văn hóa đã có một bước phát triển rực rỡ gắn liền
với cuộc xây dựng, đánh đuổi ngoại xâm, bảo vệ đất nước. Sau 35 năm (1986-2021)
đổi mới toàn diện, đồng bộ, đất nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, đường lối văn hóa
đổi mới của Đảng được thể hiện quan điểm, chủ trương, chính sách xây dựng và
phát triển văn hóa, con người từ Đại hội Đảng lần thứ VI đến Đại hội Đảng lần
thứ XIII. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đánh
dấu sự phát triển tư duy lý luận của Đảng và là kết quả tổng kết thực tiễn xây
dựng và phát triển văn hóa Việt Nam trong suốt quá trình lãnh đạo của Đảng. Xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc tiếp tục được bổ sung, phát
triển đầy đủ và phong phú hơn trong các văn kiện của Đảng qua các kỳ Đại hội,
như: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được
thông qua tại Đại hội lần thứ VII (6/1991); Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về
xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
(7/1998); Kết luận Trung ương 10 khóa IX (7/2004) về tiếp tục thực hiện Nghị
quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc trong những năm sắp tới; Đại hội lần thứ X của Đảng (4/2006) khẳng
định: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế
- xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”.
Hội nghị lần thứ
5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã xác định 5 quan điểm chỉ đạo cơ bản
và 10 nhiệm vụ cụ thể xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc.
Trên cơ sở tổng
kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII “Về xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Hội nghị lần thứ 9 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW “Về xây dựng
và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước”.
Trên cơ sở kế
thừa những quan điểm, chủ trương, nội dung và giải pháp của Nghị quyết Trung
ương 5 khóa VIII, tổng kết lý luận và thực tiễn xây dựng và phát triển văn hóa,
con người trong những năm qua, Đảng ta đã có sự đổi mới trong tư duy về xây dựng
và phát triển văn hóa, con người phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới. Những đổi mới tư duy lý luận, những vấn đề phát
triển mới về xây dựng và phát triển văn hóa, con người trong Nghị quyết Trung
ương 9 khóa XI được thể hiện trên một số nội dung sau đây:
Thứ nhất, đặt
tên của Nghị quyết “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam”.
Thứ hai, Đảng
ta đã khẳng định sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, sự
nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đã có chuyển biến
tích cực, đạt kết quả quan trọng về tư duy, nhận thức, về đời sống văn hóa… đồng
thời cũng bộc lộ những hạn chế, yếu kém…
Thứ ba, quán
triệt sâu sắc yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới
theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, Nghị quyết Trung ương 9 khóa
XI đã khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của việc xây dựng và phát triển văn
hóa, con người đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh mới
của tình hình thế giới, khu vực và trong nước đang và sẽ có nhiều diễn biến phức
tạp, khó lường.
Thứ tư, Nghị
quyết đã chỉ ra năm quan điểm chỉ đạo, trong đó “văn hóa phải được đặt ngang
hàng với kinh tế, chính trị, xã hội” là một luận điểm mới thể hiện Đảng ta đã rất
coi trọng vị trí, vai trò quan trọng của văn hóa. Đặt văn hóa ngang hàng với
kinh tế, chính trị, xã hội thể hiện rõ quan điểm sức mạnh tổng hợp của đất nước
phải là sức mạnh của cả kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa...
Thứ năm, Nghị
quyết đã đặt nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng
tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và
nhân cách lên hàng đầu. Trong xác định nhiệm vụ xây dựng văn hóa trong chính trị
và kinh tế, Đảng ta cũng nhấn mạnh “trọng tâm là xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng
viên, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức, tận tụy, hết lòng phụng sự Tổ
quốc, phục vụ nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân; có ý thức thượng tôn pháp
luật, dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương; tự do cá nhân gắn với trách nhiệm
xã hội và nghĩa vụ công dân”.
Xây dựng nền
văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước để thực
hiện tốt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII trong tầm nhìn chiến lược:
50 năm (1975-2025) giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước; Việt Nam
là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu
nhập trung bình thấp; 100 năm thành lập Đảng (1930-2030), Việt Nam là nước đang
phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; 100 năm
(1945-2045) thành lập Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Cộng hòa XHCN Việt Nam),
Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Nhân dân ta kế thừa, phát
triển và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, không
ngừng sáng tạo những giá trị văn hoá mới thấm đẫm tinh thần yêu nước
và lý tưởng xã hội chủ nghĩa phù hợp với đất nước và tiếp thu tinh hoa
văn hóa thế giới, đưa đất nước vững bước trong xu thế phát triển của nhân
loại tiến bộ. Đó là sức mạnh hiện thực của văn hóa Việt Nam./.
HAT-H1
0 nhận xét:
Đăng nhận xét