Chế độ sở hữu toàn dân về đất
đai lần đầu tiên được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1980 dựa trên cơ sở lý luận
về tính tất yếu khách quan của việc xã hội hóa đất đai. Từ đó tới nay, qua một
số lần sửa đổi Hiến pháp và sửa đổi Luật Đất đai, Đảng ta luôn kiên định quan
điểm đất đai thuộc sở hữu toàn dân, giao cho Nhà nước là đại diện chủ sở hữu,
thống nhất quản lý và sử dụng hiệu quả. Quan điểm này được Nhà nước thể chế hóa
trong Hiến pháp và pháp luật qua nhiều thời kỳ. Hiến pháp 2013 và Luật Đất đai
2013 đều quy định rõ vấn đề này. Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16-6-2022 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về quản lý sử dụng đất và dự thảo Luật Đất
đai (sửa đổi) đang được đưa ra lấy ý kiến toàn dân cũng một lần nữa khẳng định:
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai đã góp phần
quan trọng duy trì ổn định chính trị-xã hội (CT-XH), bảo đảm quốc phòng, an
ninh của đất nước, bảo đảm sinh kế cho người nông dân. Thực tế đã cho thấy,
quan điểm trên là đúng đắn, phù hợp với chế độ CT-XH, đặc điểm văn hóa, lịch sử
và điều kiện tự nhiên của nước ta. Đó là vì:
Thứ nhất, xuất phát từ đặc điểm
của Nhà nước ta là "tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân", thì
nhân dân phải là chủ sở hữu đối với tư liệu sản xuất đặc biệt quý giá của quốc
gia là đất đai. Ðất đai là thành quả của sự nghiệp dựng nước và giữ nước lâu dài
của cả dân tộc, là thành quả từ công sức, xương máu của bao thế hệ, không thể để
cho một số người nào đó có quyền độc chiếm sở hữu. Ðất đai của quốc gia dân tộc
phải thuộc sở hữu chung của toàn dân và được sử dụng phục vụ cho mục đích chung
của toàn dân tộc, của nhân dân.
Thứ hai, sở hữu toàn dân về đất
đai tạo điều kiện để những người lao động tiếp cận đất đai tự do. Phải tạo cơ
chế công bằng ngay từ gốc, tức là người lao động phải có tư liệu sản xuất,
trong đó có đất đai, để lao động mưu sinh.
Thứ ba, trong điều kiện nước ta,
việc thiết lập chế độ sở hữu tư nhân về đất đai là một yếu tố cản trở đầu tư
cho phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH). Bởi vì, trong chế độ sở hữu tư nhân đất
đai, không ai có quyền ngăn cản người chủ đất sử dụng đất theo ý họ, vì đất là
tài sản riêng của họ. Lý do này còn khiến đất đai có xu hướng được sử dụng
không hiệu quả, chỉ bảo vệ lợi ích của chủ đất mà không quan tâm tới lợi ích
sinh tồn của phần lớn dân cư, khi cần xây dựng những công trình công cộng thì sở
hữu tư nhân về đất đai sẽ gây ra những trở lực lớn. Sở hữu tư nhân đất đai còn
dẫn đến kết quả không mong muốn là tập trung đất đai trong tay một số người có
nhiều tiền, hệ quả là có người sở hữu quá nhiều đất, người lại không có tấc đất
cắm dùi. Điều này sẽ gây bất ổn xã hội. Với việc quy định chế độ sở hữu toàn
dân về đất đai trong Hiến pháp, khi phần lớn công dân bị bất lợi trong phân
chia lợi ích từ đất đai, thì Nhà nước có thể sửa Luật Ðất đai phục vụ mục đích
chung của công dân, sửa chữa những mất công bằng trong phân phối lợi ích từ đất
đai do cơ chế thị trường đem lại. Nếu Hiến pháp tuyên bố sở hữu tư nhân về đất
đai thì nhân danh quyền chủ sở hữu, bộ phận nhỏ dân cư sở hữu nhiều đất đai sẽ
không cho phép phần lớn còn lại thay đổi chế độ phân phối lợi ích từ đất đai.
Thứ tư, chế độ sở hữu toàn dân về
đất đai tránh cho xã hội Việt Nam rơi vào tình trạng bất ổn do một số người có
thể đòi hỏi xem xét lại các quyết định lịch sử về đất đai. Nếu thừa nhận sở hữu
tư nhân đất đai hoặc đa sở hữu về đất đai, sẽ diễn ra các cuộc tranh chấp đòi lại
quyền sở hữu nhà, đất trong quá khứ mà không cần tính đến các yếu tố lịch sử và
hiện trạng, như vậy xã hội dễ lâm vào tình trạng bất ổn.
Thứ năm, nếu thừa nhận sở hữu tư
nhân đất đai và cho phép người nước ngoài thỏa thuận mua bán đất với tư nhân
thì nguy cơ mất chủ quyền lãnh thổ từ hệ lụy của nền kinh tế thị trường sẽ
thành hiện thực. Đã có nhiều bài học nhãn tiền của một số nước trên thế giới về
vấn đề này...
0 nhận xét:
Đăng nhận xét