CHÀO MỪNG ĐẾN VỚI BLOG GIỮ TRỌN LỜI THỀ

Thứ Ba, 30 tháng 5, 2023

HỌC THUYẾT VỀ HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA C.MÁC, SỰ VẬN DỤNG SÁNG TẠO CỦA ĐẢNG TRONG XÁC ĐỊNH CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

 

Tóm tắt: Nhìn lại chặng đường hơn 35 năm đổi mới, chúng ta có quyền tự hào khẳng định rằng những thành tựu về kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, đối ngoại, xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, tăng cường đoàn kết toàn dân tộc mà chúng ta đạt được thực sự là to lớn và có ý nghĩa lịch sử cả về lý luận và thực tiễn. Những thành tựu to lớn đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta, trên nền tảng chủ nghĩa Mác và tư tưởng Hồ Chí Minh, là hoàn toàn đúng đắn và sáng tạo; chứng tỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng nước ta là phù hợp hoàn cảnh thực tế Việt Nam và phù hợp với xu thế thời đại. Tuy nhiên, nước ta vẫn đang đứng trước những thách thức và nguy cơ không thể xem thường, đòi hỏi chúng ta phải bổ sung và phát triển di sản lý luận của chủ nghĩa Mác về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ và khả năng tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.

Từ khóa: kinh tế - xã hội, chủ nghĩa xã hội, Việt Nam.

Việc nhận thức, bảo vệ và vận dụng sáng tạo học thuyết Mác về hình thái kinh tế xã hội đang trở thành nhiệm vụ chính trị cấp bách trong cuộc đấu tranh lý luận tư tưởng đang diễn ra rất gay go, phức tạp hiện nay. Từ khi hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên xô cũ và Đông Âu tan rã, vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã và đang bị chủ nghĩa cơ hội tìm mọi cách xuyên tạc, bác bỏ; họ cho rằng Liên - Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ chứng tỏ chủ nghĩa tư bản còn khả năng phát triển, chủ nghĩa xã hội không phù hợp với nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học; không đủ điều kiện vật chất, văn hoá cần thiết cho sự phát triển. Ở Việt Nam, những người theo quan điểm cơ hội, xét lại cho rằng quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là quá sớm và sai lầm, do đó phải “quay lại chủ nghĩa tư bản”. Vì vậy phải quán triệt học thuyết của Chủ nghĩa Mác về hình thái kinh tế - xã hội để tiếp tục làm sáng tỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và chúng ta có cơ sở khoa học để tin rằng con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta là tất yếu và có khả năng, đó là con đường duy nhất đúng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn, là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử.

Học thuyết hình thái kinh tế xã hội là học thuyết khoa học và cách mạng của Chủ nghĩa Mác - Lênin.

Chủ nghĩa Mác tiếp cận lịch sử xã hội loài người bằng học thuyết hình thái kinh tế xã hội, đây là cách tiếp cận khoa học và hoàn bị nhất, là cuộc cách mạng trong nghiên cứu sự phát sinh, phát triển của xã hội loài người.

Mác nghiên cứu xã hội từ nền sản xuất vật chất, từ đó rút ra quy luật xã hội. Mác cho rằng xã hội là một chỉnh thể có hệ thống và cấu trúc, trong mỗi giai đoạn nhất định đều có các yếu tố cơ bản và phổ biến: lực lượng sản xuất; quan hệ sản xuất; cơ sở hạ tầng hợp thành trên các quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tương ứng trên cơ sở hạ tầng. Trong đó, lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất của xã hội, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các thời đại kinh tế, là yếu tố xét đến cùng quy định sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội. Quan hệ sản xuất là quan hệ khách quan cơ bản hình thành trong quá trình sản xuất, là quan hệ quyết định chi phối mọi quan hệ xã hội, là tiêu chuẩn để phân biệt bản chất các xã hội khác nhau ở từng giai đoạn lịch sử. Kiến trúc thượng tầng thể hiện bộ mặt tinh thần của đời sống xã hội, do cơ sở hạ tầng quyết định, nhưng nó cũng có tính độc lập tương đối tác động trở lại cơ sở hạ tầng. Sự tác động lẫn nhau của các yếu tố trong hình thái kinh tế - xã hội, hình thành hai quy luật cơ bản, đó là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Sự tác động tổng hợp của hai quy luật ấy là động lực thúc đẩy xã hội phát triển mà suy đến cùng do yếu tố lực lượng sản xuất quyết định. Như vậy, chủ nghĩa duy vật lịch sử đã luận giải quy luật vận động đời sống chính trị của xã hội trên cơ sở đời sống kinh tế, tạo thành điều kiện đủ khi nghiên cứu, tiếp cận lịch sử xã hội. Phương pháp tiếp cận lịch sử bằng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội giúp Mác nhìn thấy động lực của lịch sử là do hoạt động thực tiễn của con người dưới tác động của các quy luật khách quan chứ không phải một thứ tinh thần thần bí nào. Xuất phát từ “Cái sự thật hiển nhiên... là trước hết con người cần phải ăn uống, ở và mặc, nghĩa là phải lao động, trước khi có thể đấu tranh để giành quyền thống trị, trước khi có thể hoạt động chính trị, tôn giáo, triết học...”. Động lực của sự phát triển xã hội bắt nguồn từ quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất và quy luật quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.

Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên.

Học thuyết hình thái - xã hội không chỉ xác định các yếu tố cấu thành hình thái kinh tế - xã hội, mà còn xem xét xã hội trong một quá trình biến đổi và phát triển không ngừng. Mác viết “tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử, tự nhiên”. Trong quan niệm coi sự vận động xã hội như một quá trình lịch sử - tự nhiên, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác luận giải đó là quá trình lịch sử nhưng mang tính tự nhiên, tiếp tục lịch sử của giới tự nhiên, vận động theo quy luật và xét đến cùng thì không thể phụ thuộc vào ý muốn con người. Chính là dựa vào tư tưởng vĩ đại này, dựa vào những định hình khách quan của các quan hệ kinh tế - xã hội tạo ra cơ cấu kinh tế của xã hội. Mác đã tách ra các hình thái kinh tế - xã hội ra và cho rằng mỗi hình thái kinh tế - xã hội đó được coi là một cơ chế tự phát triển theo những quy luật vốn có của nó, một cơ chế xã hội riêng biệt, có những quy luật riêng về sự ra đời của nó về hoạt động của nó và bước chuyển biến của nó lên một hình thức cao hơn, tức là biến thành một cơ chế xã hội khác. Sự thay thế kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế - xã hội: xã hội cộng sản nguyên thuỷ được thay thế bằng xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội chiếm hữu nô lệ được thay thế bằng xã hội phong kiến, xã hội phong kiến được thay thế bằng xã hội tư bản chủ nghĩa... tạo nên trục đường tiến triển trong lịch sử loài người. Từ nghiên cứu các quy luật của sự phát triển xã hội nói chung và nhất là chủ nghĩa tư bản nói riêng, Mác và Ăngghen đã dự đoán sự xuất hiện một hình thái kinh tế - xã hội mới - cộng sản chủ nghĩa, không có đối kháng giai cấp và không có tình trạng bóc lột người.

Theo Mác, sự thay thế một hình thái kinh tế - xã hội này bằng hình thái kinh tế - xã hội khác được thực hiện thông qua cách mạng xã hội. Nguyên sâu xa của cuộc cách mạng đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, đặc biệt là khi quan hệ sản xuất trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất. Trong thời kỳ cách mạng, cơ sở kinh tế thay đổi thì tất cả kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng thay đổi theo cho phù hợp. Từ những cơ sở khoa học luận giải như vậy, chủ nghĩa Mác đã kết luận hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa nhất định sẽ được thay thế bằng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa và sự thay thế này cũng là quá trình lịch sử - tự nhiên. Sự thay thế được thực hiện thông qua cách mạng xã hội chủ nghĩa mà hai tiền đề quan trọng nhất của nó là sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự trưởng thành của giai cấp công nhân.

Tuy nhiên, sự phát triển giữa các quốc gia thường diễn ra không đều, kể cả khả năng phát triển bỏ qua một hình thái kinh tế xã hội nào đó. Nhìn chung, cho đến nay, lịch sử nhân loại đã trải qua bốn hình thái kinh tế - xã hội kế tiếp nhau: Cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và đang quá độ sang chủ nghĩa xã hội - giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Song, do đặc điểm về lịch sử, về không gian, về thời gian, không phải quốc gia nào cũng phải trải qua tất cả các hình thái kinh tế - xã hội theo một sơ đồ chung. Lịch sử cho thấy, có những nước do những điều kiện khách quan và chủ quan, bên trong và bên ngoài chi phối đã bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội nào đó trong tiến trình phát triển của mình. Chẳng hạn ở một số nước (I-ta-li-a, Pháp, Tây Ban Nha...), chế độ phong kiến đã bắt đầu hình thành trong lòng chế độ chiếm hữu nô lệ; chế độ phong kiến ra đời không phải từ chế độ chiếm hữu nô lệ như (Nga, Ba Lan, Đức); ở Mỹ: chủ nghĩa tư bản hình thành trong điều kiện xã hội không trải qua chế độ phong kiến. Đây là sự phát triển rút ngắn bỏ qua một hoặc vài hình thái kinh tế - xã hội. Tất cả sự phát triển tuần tự qua đủ các hình thái kinh tế - xã hội lẫn phát triển rút ngắn, bỏ qua một hình thái trong trường hợp nào đó đều là  quá trình lịch sử tự nhiên, xét theo những quy luật và những điều kiện cụ thể khách quan quy định.

Lênin vận dụng quan điểm của Mác, nghiên cứu chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa và đã nêu lên khả năng không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa để tiến thẳng lên chủ nghĩa ở các nước lạc hậu. Nghĩa là trong những điều kiện nhất định, ở các nước lạc hậu không nhất thiết phải diễn ra một cách tuần tự như lịch sử ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản như các nước tư bản đã từng trải qua. Lênin viết: “Với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản ở các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xô Viết và qua những giai đoạn nhất định tiến tới chủ nghĩa cộng sản, không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.

Theo Lênin, đối với các nước thuộc địa và phụ thuộc bị áp bức bởi chủ nghĩa đế quốc thì sau khi tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc phải tiến ngay lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, không phải trải qua hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa trong những điều kiện cần và đủ: Các nước đó phải giành được độc lập dân tộc, thiết lập chuyên chính về tay công - nông, phải có đảng cộng sản lãnh đạo, lực lượng cách mạng phát triển dựa trên khối liên minh công - nông vững chắc. Hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa đã trở nên lỗi thời lạc hậu, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản đã xuất hiện trong lịch sử. Theo đó, chủ trương phát triển rút ngắn để đi lên chủ nghĩa xã hội ở những quốc gia tiền tư bản chủ nghĩa chẳng những  không mâu thuẫn với quá trình lịch sử - tự nhiên mà còn là biểu hiện sinh động của quá trình lịch sử tự nhiên ấy. Cũng như trong lịch sử đã từng diễn ra một số nước bỏ qua chế độ chiếm hữu nô lệ hay chế độ phong kiến để tiến lên chế độ tư bản chủ nghĩa. Chỉ khi nào và chỉ ai chủ trương thực hiện “rút ngắn” một cách duy ý chí, bất chấp quy luật thì lúc đó mới trở nên đối lập với quá trình lịch sử tự nhiên.

Như vậy, chủ nghĩa Mác đã luận giải sự phát triển của xã hội là sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội và quá trình đó là một quá trình lịch sử - tự nhiên và chẳng những diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự mà còn bao hàm cả trường hợp bỏ qua một hoặc một vài hình thái kinh tế - xã hội nhất định trong những hoàn cảnh kịch sử cụ thể nhất định. Do đó, đây là cơ sở phương pháp luận khoa học và cách mạng, cơ sở lý luận, nền tảng tư tưởng cho Đảng cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta lựa chọn con đường cách mạng của dân tộc mình.

Đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng của cách mạng Việt Nam

Vào những năm đầu thế kỷ XX, cách mạng Việt nam rơi vào tình trạng khủng hoảng  về đường lối. Hàng loạt phong trào yêu nước theo lập trường phong kiến và tiểu tư sản đều bị dập tắt và đều chịu chung số phận thất bại. Trong bối cảnh đó, với lòng yêu nước nồng nàn, thương dân sâu sắc và sự mẫn cảm chính trị đặc biệt, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã đi tìm đường cứu nước, Người đã đi đến chủ nghĩa Mác và tìm thấy ở đó con đường cứu nước đúng đắn nhất và Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: Muốn giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới ra khỏi ách nô lệ. Đồng thời Người khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội. Sự lựa chọn của Người là sự lựa chọn của giai cấp công nhân, của nhân dân Việt Nam, của dân tộc ta phù hợp với xu thế của thời đại mới - thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Con đường cách mạng Việt Nam mà Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn được thực thi trong thực tiễn bằng công tác tuyên truyền, vận động cách mạng và gắn với việc thành lập Đảng cách mạng của giai cấp công nhân ở nước ta. Theo Người: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hoà bình, hạnh phúc, nói tóm lại là nền cộng hoà chân chính, xoá bỏ những biên giới tư bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ là những vách tường dài ngăn cản những người lao động trên thế giới hiểu và yêu thương nhau”. Trên cơ sở tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính cương và sách lược vắn tắt, sau đó là cương lĩnh năm 1930 của Đảng lần lượt ra đời, vạch ra đường lối đúng đắn cho đường lối cách mạng Việt Nam.

Trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng ta đã chỉ ra con đường cách mạng Việt Nam là con đường bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa xã hội qua hai giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đường lối cách mạng đó đã đặt nền móng cho sự tiếp tục làm rõ và phát triển hơn nữa về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong quá trình cách mạng. Chính Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng suốt nhận thức đúng đắn về thời đại, về sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam để lựa chọn con đường cách mạng vô sản, đi theo con đường của cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại. Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lái con thuyền cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945, của các cuộc chiến tranh oanh liệt giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc có ý nghĩa lịch sử không chỉ đối với dân tộc ta, mà còn có ý nghĩa thế giới. Đó là kết quả sự kết tinh của sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng, của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, trí thông minh sáng tạo của quân và dân ta đánh thắng thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Những thắng lợi đó không chỉ có ý nghĩa to lớn đối với cách mạng nước ta, mà còn đối với phong trào cách mạng thế giới.

Bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh chủ nghĩa xã hội sụp đổ ở Đông Âu, Liên Xô và tạm thời đi vào thoái trào. Những thành tựu sự nghiệp đổi mới trong kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học... đã làm cho chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam không những vượt qua khủng hoảng mà còn tạo ra thế mới, lực mới để tiếp tục phát triển. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta được chứng minh bằng những thắng lợi to lớn và phong phú, nó đã làm cho nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, trở thành quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa. Vị thế quốc tế của Việt Nam ngày càng tăng trong quan hệ với tất cả các nước. Nhân dân ta đang làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Bên cạnh đó khẳng định, con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội không phải một sớm một chiều. Quá trình đó phải trải qua những giai đoạn, những nấc thang đa dạng. Sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là do sai lầm về mô hình, sai lầm về nhận thức và mặt chủ quan. Còn lý luận chủ nghĩa Mác về hình thái kinh tế - xã hội vẫn còn nguyên giá trị và xã hội chủ nghĩa vẫn là xã hội tốt đẹp, mơ ước của nhân loại tiến lên để nhằm giải phóng con người toàn diện.

Vận dụng sáng tạo những tư tưởng của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác vào thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Dựa trên lý luận về học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, chúng ta có thể khẳng định: Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa vẫn có đủ khả năng và điều kiện vì đó là một tất yếu, phù hợp với quy luật khách quan của lịch sử, bởi vì: Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác cho rằng đối với các nước tiền tư bản chủ nghĩa cần phải có tấm gương của một cuộc cách mạng vô sản đã thắng lợi để làm bài học mẫu hình cho việc rút ngắn con đường đi tới chủ nghĩa xã hội, thì đối với Việt Nam, cho đến nay tấm gương của các cuộc cách mạng vô sản đã phong phú đến mức bao hàm trong đó nhiều bài học sinh động về sự thành công và thất bại, sâu sắc và chi tiết đến mức có thể nêu ra được những tình huống và những giải pháp điển hình cho sự lãnh đạo và thực hiện tiến trình cách mạng. Mặt khác, chủ nghĩa Mác chỉ ra rằng, cần phải có sự giúp đỡ tích cực của giai cấp vô sản các nước tiên tiến, các nước tiền tư bản chủ nghĩa mới có thể rút ngắn được con đường đi tới chủ nghĩa xã hội thì ở nước ta hiện nay, có thể nói rằng Đảng và nhà nước ta hơn bao giờ hết đã có đủ kinh nghiệm và bản lĩnh trong việc tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng xã hội tiến bộ trên thế giới cũng như của giai cấp vô sản quốc tế để xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, Đảng ta đã sớm nắm bắt và mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới; chính sách mở cửa, hợp tác đa dạng, đa phương cùng có lợi là một nhân tố quan trọng của sự nghiệp xây dựng đất nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại ở nước ta đã tạo ra những thời cơ thuận lợi, những động lực mạnh mẽ cho công cuộc phát triển đất nước. Cùng với những lý do trên, trong tiến trình cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt nam là nhân tố có vai trò quyết định đối với việc đẩy nhanh sự phát triển của đất nước. Chỉ có Đảng Cộng sản Việt nam mới có đủ khả năng để thực hiện sứ mệnh xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt nam. Những thành tựu và hạn chế trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã trở thành bài học kinh nghiệm quý để chúng ta tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới đến đích thắng lợi. Đại hội XIII Đảng ta đề ra mục tiêu đó là: “phấn đấu đến năm 2030, là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao”.

Với những lý do và đặc điểm trên đây có thể khẳng định rằng con đường của cách mạng Việt Nam là tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa là sự phát triển rút ngắn và hợp quy luật. Đồng thời điều đó được chứng minh rất rõ trên thực tế của thành tựu trên các mặt của công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước mà nhân dân ta đã nhận thấy và bè bạn trên thế giới nhận định và khen ngợi, khâm phục.

Ngày nay, những diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế, chính trị thế giới, âm mưu thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch ra sức chống phá và coi Việt Nam là một trọng điểm. Nhưng Đảng và nhân dân ta luôn tin tưởng vào khả năng thành công của con đường mà dân tộc ta đã lựa chọn. Bởi lẽ, với truyền thống và kinh nghiệm cách mạng đã tích luỹ và trải qua thể nghiệm, tìm tòi, với đường lối đổi mới đúng đắn, đất nước ta đang có vị thế mới, đất nước sẽ tiếp tục vững bước phát triển, trên con đường thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.

Những cơ sở lý luận và thực tiễn đã khẳng định việc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một tất yếu khách quan, có đầy đủ cơ sở, điều kiện, khả năng hiện thực. Đó là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử. Nhưng trong quá trình lãnh đạo cách mạng và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng ta cũng phạm những sai lầm khuyết điểm trong nhận thức và hành động. Đặc biệt là sự nhận thức về bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa còn thiếu biện chứng, đã có một giai đoạn, chúng ta phủ nhận sạch trơn những giá trị tích cực dưới chế độ tư bản hoặc coi những gì của chủ nghĩa tư bản đến là sấu xa, phản động còn đối với chủ nghĩa xã hội chỉ có duy nhất là màu hồng, tốt đẹp, đó là chủ quan, thiếu cái nhìn chân thực, toàn diện... Chính vì vậy chúng ta cần phải nhận thức một cách đầy đủ, khách quan, khoa học toàn diện, lịch sử cụ thể con đường bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Chúng ta bỏ qua phát triển chế độ tư bản chủ nghĩa chính là một kiểu phát triển rút ngắn nhưng vẫn tôn trọng quá trình lịch sử tự nhiên không thể chủ quan, nóng vội, đốt cháy giai đoạn. Đó là sự quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội. Đó là việc rút ngắn “những cơn đau đẻ kéo dài”, nghĩa là rút ngắn giai đoạn và bước đi của tiến trình lịch sử lên chủ nghĩa xã hội. Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa đặc biệt là về khoa học công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Phương thức bỏ qua là một quá trình đầy khó khăn phức tạp tính tất yếu phải lâu dài và trải qua nhiều chặng đường, qua nhiều khâu trung gian, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ nhưng việc bỏ qua để nhanh đạt được mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh.

Như vậy, lý luận chủ nghĩa Mác nói chung và học thuyết hình thái kinh tế - xã hội nói riêng ngày nay vẫn còn nguyên giá trị và là cơ sở khoa học cho Đảng ta nhận thức, luận giải, vận dụng sáng tạo để ngày càng làm rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng thời khẳng định cơ sở vững chắc nước ta bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan, phù hợp với xu thế thời đại, đặc điểm hoàn cảnh nước ta và tuyệt đại đa số nhân dân ta mong ước. Do đó, chúng ta càng tin tưởng hơn nữa về con đường cách mạng nước ta do Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn có đủ điều kiện và khả năng hiện thực để đi đến thắng lợi. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.

Trung thành và vận dụng sáng tạo học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội, Đảng ta nhận thức: Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản và con đường đó được Đảng ta, Bác Hồ và nhân dân lựa chọn, đồng thời cũng chính là sự lựa chọn của lịch sử. Trải qua bao thăng trầm, biến cố của đất nước và ngày càng khẳng định tính đúng đắn, khoa học. Với thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước, ngày càng làm rõ hơn con đường của cách mạng Việt Nam hiện nay là phù hợp với hoàn cảnh đất nước, xu thế, hợp với quy luật phát triển của thời đại.

 LNH - H3

Tài liệu tham khảo

1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2011.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2016.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2021.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2021.

5. Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2011.

6. Nguyễn Phú Trọng (2022), “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Nxb CTQG-ST, H. 2022.

0 nhận xét: