Tóm tắt: Kinh tế thị trường là sản phẩm chung của lịch sử nhân loại, đây là giai đoạn
tích luỹ đầy đủ các yếu tố để hướng tới phương thức sản xuất cộng sản chủ
nghĩa. Đối với Việt Nam, việc xác
định mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn phù hợp với xu
thế khách quan, thực tiễn kinh tế - xã hội và có vai trò to lớn trong tiến
trình phát triển. Tuy nhiên, các thế lực thù địch luôn tìm mọi
cách xuyên tạc mô hình
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhằm làm mất niềm tin của nhân dân vào sự lãnh
đạo của Đảng, nảy sinh những tình huống tư tưởng phức tạp. Vì vậy,
nhận diện và chủ động đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch về nội
dung này có ý nghĩa rất quan trọng trong giai đoạn hiện nay.
Từ khoá: Kinh tế thị trường, định hướng xã
hội chủ nghĩa, quan điểm.
1. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
sự vận dụng sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cả phương diện lý luận và
thực tiễn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Về mặt lý luận, mô
hình kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là kết quả của quá trình nhận thức và vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong đó, lý
luận về “khâu trung gian” có ý nghĩa phương pháp luận đặc biệt quan trọng
nhằm xác lập mô hình kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta, phù hợp với quy luật
lịch sử - tự nhiên. Theo đó, về bản chất, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là “khâu
trung gian” trong quá trình phát triển kinh tế. Diễn đạt về tính chất “khâu
trung gian”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Đây không phải là
nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta đang trong thời kỳ quá độ)”[1]. Với tính chất như vậy, cần thống nhất
nhận thức rằng: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
đang trong quá trình hoàn thiện, đan xen những mảng màu sáng, tối khác nhau và
không thể tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định.
Về mặt lịch sử, sản
xuất hàng hoá ra
đời ngay trong phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ và phong kiến, nhưng chỉ đến
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mới đạt đến trình độ nền kinh
tế thị trường. Tuy
nhiên, do đặc điểm địa chính trị khác nhau nên trình độ phát
triển của kinh tế thị trường ở các nước tư bản là không ngang nhau. Ở một số nước
tư bản, kinh tế thị trường đã đạt tới trình độ hiện đại song không thể vượt qua giới hạn của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, không thể loại bỏ được những khuyết tật như:
Tính tự phát, khủng hoảng chu kỳ, cạnh tranh vô chính phủ. Hệ quả tất yếu về mặt
xã hội là tình trạng bất bình đẳng, phân hoá giàu nghèo, khuyến khích chủ nghĩa thực dụng, chạy theo
lợi ích cá nhân,... Những hệ luỵ đó sẽ dần chuyển hoá thành những nguyên
nhân phủ định chính sự tồn tại của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Về mặt thực tiễn, kiên
định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong từng chặng đường phát
triển, việc xác định mô hình kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa thể hiện tư duy đổi mới, tầm nhìn dài hạn của Đảng ta, phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam và bối
cảnh quốc tế. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Đưa ra quan niệm
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận
rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm
thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn
lọc kinh nghiệm của thế giới”[2]. Thực tiễn quá trình đổi mới cho thấy, mô
hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đang ngày càng
hoàn thiện, tạo động lực mạnh mẽ phát triển kinh tế - xã hội. Những thành tựu kinh tế - xã hội của thời
kỳ đổi mới là minh chứng sinh động nhất, khẳng định mô hình kinh tế thị trường ở Việt Nam là sự lựa chọn hoàn
toàn đúng đắn, có
sức hấp dẫn và ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhiều nước trên thế giới; đặc biệt qua 35
năm đổi mới, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu trên tất các lĩnh vực kinh
tế - xã hội. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được
cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”[3]. Đồng
thời, đây cũng chính là cơ sở thực tiễn vững chắc để khẳng định rằng: Kinh tế
thị trường
là giá trị chung của văn minh nhân loại, hoàn toàn không phải là sản phẩm riêng có của chủ
nghĩa tư bản; kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa khác về bản chất so với nền kinh tế thị trường
tư bản chủ nghĩa. Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế
thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế
thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và
bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý và
phân phối.
2. Nhận diện và đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù
địch về phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là sự lựa chọn đúng đắn và
sáng tạo cả về lý luận và thực tiễn, là bước đi tất yếu trong thời kỳ quá độ.
Tuy nhiên, hiện nay các
thế lực thù địch đã và đang triệt để lợi dụng những tồn tại, vướng mắc trong
quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để
xuyên tạc, phủ nhận đường lối lãnh đạo, thành tựu phát triển kinh tế của Đảng,
Nhà nước, kích động tâm lý hoài nghi trong xã hội, làm mất phương hướng, niềm
tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Những
luận điểm của các thế lực thù địch tập trung vào một số vấn đề cơ bản sau:
Luận điểm một, kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa không có gì mới mẻ, nó chẳng qua chỉ là việc lắp
ghép “cái
đuôi” xã
hội chủ nghĩa vào “cơ thể” kinh tế thị trường vốn có của chủ nghĩa tư bản
Đây là
luận điểm hoàn toàn sai trái, bởi lẽ kinh tế thị trường không
phải là một chế độ kinh tế - xã hội mà là
một hình thức, phương pháp vận hành nền kinh tế. Thực tiễn phát triển kinh tế
thị trường cho thấy, sự
phát triển của kinh tế thị trường gắn liền với sự phát triển của văn minh nhân
loại, của khoa học - kỹ thuật và của lực lượng sản xuất. Kinh tế thị trường là sản phẩm của sự phát
triển khách quan trong lịch sử xã hội loài người chứ
không phải sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản, càng không phải là chủ nghĩa
tư bản, dù theo bất kỳ cách tiếp cận nào.
Về mặt lý luận, khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản, C.
Mác chỉ ra rằng: Kinh tế
thị trường là một giai đoạn phát triển tất yếu của lịch sử, mà bất cứ nền kinh
tế nào cũng phải trải qua để đạt tới nấc thang cao hơn trên con đường phát
triển. Nấc thang cao hơn chính là nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn
đầu là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Để chuyển lên nấc thang này, nền kinh tế
thị trường phải phát triển hết mức, phải trở thành phổ biến trong đời sống kinh
tế - xã hội. Như vậy, kinh
tế thị trường chính là một nấc thang tất yếu, mang tính phổ biến trong tiến
trình phát triển của lịch sử nhân loại. Đây là cơ sở đập tan luận
điểm cho rằng, kinh tế thị trường chỉ gắn liền với chủ nghĩa tư bản.
Mặt
khác, mỗi quốc gia - dân tộc đều có quyền lựa chọn mô hình phát triển cho mình.
Đối với Việt Nam, lựa chọn mô hình phát triển kinh tế thị
trường trong việc xây dựng và phát triển đất nước là tất yếu khách quan, bởi lẽ, xét về bản chất, mô hình
kinh tế thị trường là kết quả của nền văn minh nhân loại và là
con đường tất yếu mà các dân tộc, dù dài hay ngắn, buộc phải đi theo để phát
triển. Vấn đề đặt ra đối với
Việt Nam hiện nay
là, chúng ta phải
xây dựng và thực thi mô hình kinh tế thị trường như thế nào để
phù hợp với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Việc xây dựng mô hình này không thể hoàn thành trong
ngắn hạn mà là quá trình phát triển lâu dài, vừa làm vừa tổng kết, rút kinh
nghiệm, bổ sung hoàn thiện. Theo đó, mô hình kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa được Đảng Cộng sản Việt Nam sáng tạo và thực
hiện xây dựng từ những năm 90 của thế kỷ XX đến nay, tên gọi này chính thức
được dùng từ Đại hội IX của Đảng. Các kỳ
Đại hội X, XI, XII của Đảng đều
nhấn mạnh: Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác định
là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ. Nhận thức rõ yêu cầu cấp
thiết hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 03/6/2017, Hội nghị
Trung ương 5 khoá XII “Về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa” đã làm rõ nội hàm, đưa ra các
quan điểm chỉ đạo, xác
định mục tiêu, lộ trình và đề xuất các nhiệm vụ, giải pháp hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Dựa trên những cơ sở lý
luận và thực tiễn đó, Đại
hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể
chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”[4].
Định
hướng xã hội chủ nghĩa chỉ rõ tính chất của nền kinh tế nước ta, giải quyết hài hoà, đúng đắn mối
quan hệ giữa lý luận và thực tiễn. Định hướng xã hội chủ nghĩa được xác định
thông qua thực tiễn xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ. Định hướng xã hội
chủ nghĩa hoàn toàn “không
phải là cái đuôi” được gán ghép chủ quan, khiên cưỡng, áp đặt. Vì vậy, không thể xuyên tạc hoặc
bóp méo sự thật mà phải nhận thức cho đúng, tính định hướng xã hội chủ nghĩa
trong phát triển kinh tế thị trường phản ánh mục tiêu, phương thức phát triển,
phân phối của cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta; nhờ đó mà chúng ta đã khai thác
tốt nhất lợi thế vốn có của thị trường, đồng thời khắc phục và hạn chế tới mức
thấp nhất những “khuyết tật”, rủi ro của nó nhằm phục vụ lợi ích chính đáng của
nhân dân hướng đến các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Từ đó, có thể khẳng định rằng, luận điệu
xuyên tạc trên của các thế lực thù địch chính
là xuất phát từ tư duy máy móc, giáo
điều, phê phán dựa trên cảm tính chủ quan,
thiếu cơ sở lý luận và thực tiễn.
Luận điểm hai, định
hướng xã hội chủ nghĩa cản trở tự do cạnh tranh, khiến cho kinh tế thị trường thiếu lành mạnh
Các
nhà kinh điển Mác - Lênin chỉ ra rằng, đặc trưng kinh tế cơ bản của thời kỳ quá
độ đi lên chủ nghĩa xã hội là tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Bởi vậy, trong
thời kỳ quá độ, cạnh tranh giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh là vấn đề tất
yếu, là động lực đẩy nhanh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi
toàn bộ nền kinh tế. Thực tế quá trình xây dựng mô hình
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cho thấy: Mọi chủ trương, đường lối, quy hoạch, kế hoạch
phát triển đều thể hiện nhận thức nhất quán là không có cạnh tranh tự do,
không thể nói đến kinh tế thị trường. Tư
duy nhất quán của Đảng được nêu rõ tại Đại hội XIII: “Nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành
đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm
định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế;... thị trường đóng
vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển,
là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được
phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường”[5]. Quá trình đổi mới tạo ra những điều kiện
tốt nhất để các yếu tố, các loại thị trường được hình thành và phát triển ngày càng hoàn thiện; các chủ thể kinh tế đều bình
đẳng trước pháp luật, được tham gia vào các hoạt động kinh tế mà pháp luật
không cấm; nhà nước ngày càng thể hiện tốt vai trò kiến tạo, hỗ trợ thị trường
vận hành một cách thông suốt. Như
vậy, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam tuân thủ
nghiêm ngặt các quy luật của kinh tế thị trường, các thành phần kinh tế được tự
do cạnh tranh. Nếu nói rằng, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam “không
có tự do cạnh tranh” là sự xuyên
tạc trắng trợn.
Luận điểm ba, việc
xác định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt
Nam là không công bằng, chèn ép kinh tế tư nhân, bóp méo bản chất của nền kinh
tế thị trường
Từ thực tiễn phát triển
kinh tế thị trường trên
thế giới, tất cả các lý thuyết kinh tế đều nhất trí rằng: Bản thân thị trường
và cơ chế thị trường có thể bị thất bại trong việc giải quyết một
số vấn đề phát triển như khủng hoảng, đói nghèo, công bằng xã hội, môi
trường,... Để khắc phục những hạn chế đó, bắt
buộc Nhà nước phải tham gia quản lý, điều tiết sự vận hành của nền kinh tế. Ngay
kể cả quốc gia được xem là điển hình của “thị trường tự do” như Mỹ, đằng
sau thành công của các tập đoàn tư nhân đều có vai trò to lớn của chính phủ. Theo
đó, bất kể là ở thể chế
kinh tế nào, vai trò của Nhà nước là không thể thiếu. Đối với nền kinh tế thị
trường, không thể quản lý, điều tiết bằng các mệnh lệnh chủ quan, hành chính mà
phải điều chỉnh thông qua các biện pháp kinh tế.
Đối
với Việt Nam, để quản lý, điều tiết nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa
đòi hỏi kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo, đi đầu về năng suất, chất
lượng, hiệu quả, nêu gương và dẫn dắt các thành phần kinh tế khác vận động đúng
định hướng. Nội dung này được đề cập trong Hiến pháp năm 2013: “Nền
kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo”[6].
Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ XIII của Đảng cũng nhấn mạnh: “Nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh
tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư
nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến
khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội”[7].
Việc xác định vai trò chủ đạo của kinh tế
nhà nước là điều kiện có tính nguyên tắc nhằm bảo đảm định hướng xã hội chủ
nghĩa, thể
hiện sự khác biệt về bản chất của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Bên cạnh việc nhấn mạnh vai
trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và vai trò điều tiết của Nhà nước, vai trò của
các thành phần kinh tế khác cũng
luôn được coi trọng trong các định hướng phát triển. Trong
thời kỳ đổi mới, quan
điểm nhất quán của Việt Nam là xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, các
thành phần kinh tế có vị trí, vai trò quan trọng, gắn bó hữu cơ, thống nhất,
không tách rời kinh tế nhà nước ở tất cả các giai đoạn phát triển. Các chủ thể
kinh tế thuộc thành phần kinh tế khác nhau được khuyến khích phát triển lâu
dài, hợp tác và cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật; bình đẳng về cơ hội phát
triển và lợi ích chính đáng. Nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế hỗn
hợp, bao gồm nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại
trong một thể thống nhất, trong đó, chế độ công hữu ngày càng trở thành nền
tảng vững chắc nhằm đảm bảo tính định
hướng cho nền kinh tế. Tuy
nhiên, trong mô hình kinh tế mà chúng ta đang xây dựng không
loại trừ các quan hệ sở hữu tư nhân và sở hữu tư bản chủ nghĩa, đồng thời thừa
nhận tính chất “hỗn hợp” sở hữu như bất cứ nền kinh tế thị trường nào. Nghị quyết Đại hội XIII của
Đảng khẳng định: “Kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển ở tất cả các
ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, được hỗ trợ phát triển thành các công
ty, tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao”[8].
Như vậy, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam,
kinh tế tư nhân không hề bị bóp nghẹt, càng không bị loại bỏ; trái lại, kinh tế
tư nhân còn là “động
lực quan trọng” cho
sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
Luận điểm bốn, các
thế lực thù địch cho rằng, những năm gần đây, kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa đã bị “chuyển hướng”, “xoay trục”
Mối
quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa chính là một
trong mười mối quan hệ lớn mà Đảng ta đã chỉ ra và yêu cầu “cần phải đặc biệt
chú trọng nắm vững và giải quyết tốt”. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng
định: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế
tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh
tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế...; bảo đảm định hướng xã hội chủ
nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp
với từng giai đoạn phát triển của đất nước”. Bản chất của kinh tế thị
trường là vận động khả biến và sáng tạo, linh
hoạt và uyển chuyển, là phương thức cơ bản để thu hút các nguồn lực xã hội, mở
rộng quy mô, tăng tính thích ứng với sự biến động của quá trình sản xuất kinh
tế - xã hội, phù hợp với tiến trình phát triển của nhân loại. Tuy
nhiên, cần phải hiểu rằng, xã hội hóa không đồng nhất với tư nhân
hóa. Chủ thể tham gia vào việc xã hội hóa có thể là tư nhân, có thể là
tập thể, cũng có thể là doanh nghiệp nhà nước, thậm chí cả Nhà nước. Mặt khác,
quá trình xã hội hóa ở Việt Nam luôn luôn được quản lý hướng đến mục tiêu “Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, luôn luôn bám sát và bảo
đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngay trong từng bước phát triển của kinh tế
thị trường, chúng ta vẫn duy trì và bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa,
chứ không có sự “chuyển hướng”, “xoay trục” hoàn toàn sang kinh tế thị trường
tư nhân tự do như một số luận điệu đã xuyên tạc.
Từ những vấn đề nêu trên, quá trình nghiên cứu về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa cần thấu triệt một số nội dung sau:
Thứ
nhất, kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là mô hình mang tính tất yếu khách quan, vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Điểm khác biệt lớn nhất của kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là sự vận động có chủ đích và
định hướng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Bởi vậy, quá trình hoàn thiện nền kinh tế thị trường
ở Việt Nam là sự phát triển một cách tự giác, tạo lập các yếu tố thị trường có
chủ đích, hoàn toàn không phải là mô hình kinh tế thị trường phát triển tự do,
vô chính phủ.
Thứ hai,
mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam là vì con người, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực và là trung tâm của sự phát triển, thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Mục tiêu này được thể hiện một cách nhất quán, xuyên suốt trong quá trình lãnh đạo của Đảng
cộng sản Việt Nam, đó là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”. Định hướng xã hội chủ nghĩa
trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam được thể hiện cả ở mục tiêu, phương thức, quá trình tổ chức quản lý và
phân phối.
Thứ ba,
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam không phải là nền
kinh tế thị trường độc lập, khép kín
mà là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, đáp ứng
những chuẩn mực của nền kinh tế thị trường toàn cầu. Xu thế toàn cầu hoá nền
kinh tế thế giới và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã đưa nền
kinh tế Việt Nam trở thành một bộ phận không thể tách biệt của nền toàn cầu. Bởi vậy, muốn tham gia sân chơi toàn cầu
một cách có hiệu quả, phát huy tốt tiềm năng, thế mạnh của nền kinh tế, đòi hỏi
nền kinh tế thị trường Việt Nam phải tuân thủ hệ thống chuẩn mực, nguyên tắc,
thông lệ, luật chơi toàn cầu.
Thứ tư,
nhà nước giữ vai trò điều tiết vĩ mô, kiến tạo
và quản lý các hoạt động thị trường nhằm khắc phục những khuyết tật của cơ chế
thị trường, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững, đảm bảo tiến bộ và công
bằng xã hội. Nhà nước và thị trường có mối quan hệ hài hoà, theo đó, nhà
nước phải đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức quản lý và thực thi các
mục tiêu, chương trình, kế hoạch
phát triển nhưng không làm phương hại đến các yếu tố thị trường, không triệt
tiêu mục tiêu, động lực của các chủ thể trong nền kinh tế thị trường; nhà
nước thể hiện tốt vai trò “bà đỡ”
đối với nền kinh tế, kiến tạo thị trường qua việc xây dựng hạ tầng
kinh tế, kỹ thuật “cứng” và hạ tầng kinh tế, kĩ thuật “mềm” cho nền kinh tế,
làm cho thị trường hoạt động tốt hơn, lành
mạnh hơn.
Tóm lại, thực tiễn phát triển và
lý luận kinh điển của C. Mác đều khẳng định tính tất yếu và phổ biến của kinh
tế thị trường trong quá trình phát triển của mọi quốc gia, dân tộc. Tuy nhiên,
kinh tế thị trường không phát triển theo một phương án duy nhất, cũng hoàn toàn
không phải là một mô hình đơn nhất. Điều này được kiểm nghiệm rõ ràng qua thực
tiễn phát triển kinh tế thị trường trên thế giới. Bởi lẽ đó, bất cứ quốc gia nào cũng không
được và không nên vận
dụng cứng nhắc các nguyên lý lý luận; cũng không nên rập khuôn các mô hình kinh
tế thị trường có sẵn để giải quyết các vấn đề phát triển mang nhiều nét đặc thù
của mình. Việc lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam là đúng với xu hướng chung của loài người, phù hợp với hoàn cảnh lịch
sử - xã hội của dân tộc. Do đó, việc xuyên tạc, bóp méo nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam chỉ là những luận bàn không mang tính
khoa học và thực tiễn.
Tài liệu tham khảo
1. C.Mác và Ph.Ăngghen,
Toàn tập, Nxb CTQG, H.1999.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.2006.
3. Đảng
Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.2011.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XII, Nxb
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.2016.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Tập 1, 2, Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.2021.
6. Hồ Chí Minh, Toàn tập,
Nxb CTQG Sự thật, H.2011.
7. Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tạp
chí Cộng sản, số 966, 2021.
8. V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb
CTQG, H.2005.
[1]
Nguyễn Phú
Trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, số 966 tháng 5-2021, tr. 8
2 Nguyễn Phú Trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam”, Tạp chí
Cộng sản, số
966 tháng 5-2021, tr. 8
[3] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021,
tr.25.
[4]
Đảng Cộng
sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội, 2021, tr.114-115.
[5]
Đảng Cộng
sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội, 2021, tr.128-129.
[6]
Đảng Cộng
sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội, 2021, tr.129.
[7]
Đảng Cộng
sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội, 2021, tr.130.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.240
0 nhận xét:
Đăng nhận xét