Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời đến nay luôn coi công tác lý luận là bộ phận quan trọng, là nhân tố hàng đầu cấu thành hoạt động lãnh đạo của Đảng. Có thể nói, sinh mệnh của Đảng cũng như sự thành bại của sự nghiệp cách mạng có liên quan chặt chẽ với hoạt động lý luận của Đảng. Điều này được minh chứng hùng hồn qua những chặng đường lịch sử vẻ vang của cách mạng nước ta. Nền tảng công tác lý luận của chúng ta là Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó, công tác lý luận còn được tổng kết, đúc rút từ thực tiễn. Chính thực tiễn cùng với sự đổi mới không ngừng trong tư duy lý luận là điều kiện và cơ sở để công tác lý luận phát triển và những vấn đề lý luận ngày càng được làm giàu thêm.
Một vấn đề rất
quan trọng cần nhận rõ, lý luận chính trị là bộ môn khoa học luôn phải đối diện
với những quan điểm, luận thuyết trái ngược nên công tác lý luận có nhiệm vụ là
đấu tranh chống các quan điểm sai trái và những tư tưởng lệch lạc. Lý luận, đặc
biệt là lý luận chính trị lúc nào cũng dựa trên lập trường của một giai cấp nhất
định và đấu tranh lý luận là một mặt trận quan trọng trong những cuộc đấu tranh
giai cấp. Cuộc đấu tranh lý luận không chỉ xoay quanh vấn đề cốt lõi nhất của
lý luận mà thường gắn với những vấn đề thực tiễn, nhất là những biến động của đời
sống xã hội.
Bên cạnh đó, những
thách thức đối với công tác lý luận từ bên ngoài tác động vào Việt Nam cũng
không hề nhỏ. Đó là những nghịch lý, những diễn biến khó lường và khó dự báo của
thế giới hiện nay. Ngay cả những giá trị cao đẹp và đích thực mà nhân loại dày
công tạo dựng, vun đắp như hòa bình, độc lập, chủ quyền, công bằng, tiến bộ xã
hội... cũng bị các thế lực thù địch, phản động dùng mọi mưu mô đánh phá. Đã thế,
có một tình hình là thông tin về mọi mặt đời sống chính trị-kinh tế-văn hóa-xã
hội ở mọi nơi trên thế giới và trong nước, cả mặt thuận và mặt trái, đều có thể
hấp thụ được qua nhiều cách, nhiều chiều trên nhiều phương diện. Việc nghe, việc
nhìn cũng như suy nghĩ của mỗi người trong điều kiện thông thoáng bên trong, mở
cửa, hội nhập với bên ngoài hôm nay đã khác hôm qua. Tất cả điều đó tác động đến
công tác lý luận nói chung và tác động trực tiếp đến cuộc đấu tranh lý luận nói
riêng.
Từ những vấn đề đó
đặt ra cho cuộc đấu tranh tư tưởng-lý luận hiện nay là chúng ta phải kế thừa những
cách thức và phương pháp vốn có, đồng thời phải có cách làm đổi mới, sáng tạo để
tìm ra được những luận cứ sắc bén. Điều căn bản là thấy hết những yêu cầu mới đặt
ra đối với cuộc đấu tranh lý luận hiện nay. Những yêu cầu đó thể hiện trên một
số nội dung chủ yếu sau:
Một là, trong cuộc
đấu tranh lý luận, cần nhận rõ sự phức tạp trên con đường cách mạng nước ta vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ
nghĩa xã hội (CNXH). Trên con đường đó, chúng ta gặp không ít khó khăn, không
ít lực cản. Có những khó khăn do chính bản thân chúng ta không lường hết, khó
khăn nội tại do chủ quan, duy ý chí hoặc do bảo thủ, trì trệ dẫn tới sự đình đốn,
thậm chí vấp ngã. Từ đó dẫn tới sự lúng túng và thiếu lý lẽ, thậm chí bế tắc
trong lập luận. Sự kiện ở Liên Xô trước đây và Đông Âu-những nơi mà CNXH hiện
thực tưởng như rất vững chắc nhưng đã bị tan rã một cách nhanh chóng-đã cho
chúng ta bài học sâu sắc cả về tính phức tạp của thế giới đương đại và những trắc
trở, khó khăn trên con đường đi tới tương lai của loài người.
Thực tiễn quá
trình cách mạng của chúng ta hiện nay cũng chứa đựng những vấn đề không đơn giản.
Phát triển kinh tế thị trường trong điều kiện toàn cầu hóa, mở cửa hội nhập quốc
tế là những nhiệm vụ tất yếu mà chúng ta đang tiến hành. Mặc dù chúng ta luôn
giữ định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) nhưng phát triển kinh tế thị trường càng
mạnh thì tính tự phát của khuynh hướng tư bản chủ nghĩa cũng sẽ tăng lên. Chúng
ta lại đang ở thời kỳ quá độ, trong đó nền kinh tế và cả xã hội cũng có những vấn
đề quá độ đan xen nhau, rất khó rạch ròi. Quá trình mở cửa hội nhập, chủ động
làm ăn với các nước tư bản chủ nghĩa lại sử dụng những giải pháp và cách thức
phát triển của chủ nghĩa tư bản để xây dựng CNXH đặt ra nhiều thách thức đối với
công tác lý luận và đặc biệt là công tác đấu tranh về lý luận để bảo vệ những
nguyên lý và quan điểm, định hướng của chúng ta.
Hai là, phải xuất
phát từ tư duy khoa học và sáng tạo trong cuộc đấu tranh lý luận; để có sức
thuyết phục, mọi lý lẽ được sử dụng phải mang tính khoa học và sáng tạo. Chúng
ta đều thấy rằng, một mặt, lý thuyết về CNXH và xã hội XHCN được hình thành một
cách khoa học, có khảo sát, phân tích thấu đáo trên cơ sở vận dụng những quy luật
khách quan. Nhưng mặt khác, đôi khi chúng ta không chú ý hoặc vô tình bỏ qua một
vấn đề quan trọng là những luận thuyết về CNXH được xác lập dựa vào những
phương pháp trừu tượng rất cao. Phải tìm tòi và gạt bỏ các vấn đề, các yếu tố đặc
thù, hoặc không cơ bản để đi sâu vào lý giải những vấn đề cốt lõi.
Tính trừu tượng
cao của CNXH khoa học chính là những nguyên lý chung nhất, mang tính phổ biến
nhất có thể áp dụng cho mọi nơi, mọi nước. Tuy nhiên, trong quá trình vận dụng
để xây dựng CNXH, không thể không tính đến những điều kiện đặc thù. Chủ tịch Hồ
Chí Minh là tấm gương mẫu mực về sự vận dụng một cách sáng tạo như thế. Trên cơ
sở nắm bắt sâu sắc bản chất cách mạng và khoa học, tinh thần biện chứng và nhân
đạo của học thuyết Mác-Lênin, Bác Hồ đã vận dụng sáng tạo học thuyết đó cùng với
việc kế thừa chủ nghĩa yêu nước, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa
văn hóa nhân loại để đưa ra những tư tưởng phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của
Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã và đang soi đường cho cách mạng Việt Nam
giành nhiều thắng lợi, trở thành nền tảng tư tưởng bền vững của dân tộc và có sức
lan tỏa ra thế giới.
Ba là, trong đấu
tranh lý luận không được phiến diện, tuyệt đối hóa một chiều và không công thức
hóa. Phiến diện và tuyệt đối hóa sẽ dẫn tới làm mất đi tính khoa học của lý luận
và tính phong phú của thực tế, làm cho lý luận bị ngưng đọng và không đủ uyển
chuyển để tìm ra những luận cứ đấu tranh. Như khi luận bàn về mối quan hệ giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, chúng ta có lúc đánh giá, nhìn nhận quá
cao tác dụng “mở đường” của quan hệ sản xuất; lúc khác thì chỉ để ý đến vấn đề
lợi ích, đến việc phát huy các yếu tố của lực lượng sản xuất nên coi nhẹ, thậm
chí quên mất việc quan hệ sản xuất phù hợp một cách chủ động và tích cực đối với
lực lượng sản xuất. Khi nói về kết cấu và bản chất của CNXH, đôi khi chúng ta
mô tả nó một cách công thức đơn giản, hời hợt, sơ lược, coi như không có mâu
thuẫn; không nhìn thấy hết và không quan tâm hết đến các hệ thống lợi ích khác
nhau của các tầng lớp xã hội. Tất cả những điều đó đã vô tình hạ thấp vị trí và
vai trò của hệ tư tưởng XHCN và trên thực tế sẽ tạo ra những cơ chế kìm hãm sự
phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Bốn là, đấu tranh
lý luận cần lấy căn cứ từ thực tiễn, quan tâm đến vấn đề của thực tiễn đặt ra.
Nếu trong đấu tranh lý luận mà cứ đi theo công thức định sẵn, không chú ý đến
các vấn đề mới nảy sinh trong kinh tế, không để tâm đến tâm trạng xã hội và
tình cảm của nhân dân thì không thể đủ sức thuyết phục. Một khi công tác tư tưởng,
lý luận cứ theo một khuôn khổ cứng nhắc, không đề cập đến những vấn đề thực tiễn
đang nảy sinh vào hoạt động của mình thì nhất định các tư tưởng lý luận xa lạ
sai lệch sẽ xen vào. Trong những dạng thức tư tưởng dễ xâm nhập vào quần chúng,
phải kể đến ý thức tư tưởng tiểu tư sản. Ý thức tiểu tư sản thường được “tái
sinh” từ sự chủ quan của công tác tư tưởng nói chung và công tác đấu tranh lý
luận nói riêng; từ những vi phạm nguyên tắc XHCN trong sản xuất, phân phối và
trong cả sinh hoạt đời sống đã động chạm đến lợi ích vật chất, quyền lợi của quần
chúng lao động. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người mở đầu cho cuộc đấu tranh của
nhân dân các nước thuộc địa tự giải phóng khỏi ách kìm kẹp của chủ nghĩa thực
dân, đứng lên giành chính quyền, xây dựng xã hội mới. Trên từng bước đường đổi
mới gặp vô vàn khó khăn của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chứng
minh một cách rõ ràng cho quần chúng hiểu được những điều cụ thể, từng công việc
cần làm và sẽ làm được nếu tất cả mọi người cùng giác ngộ, cùng quyết tâm, đồng
lòng, chung sức.
Năm là, đấu tranh
lý luận phải hướng vào chủ đích là củng cố niềm tin, sao cho toàn thể cán bộ, đảng
viên, nhân dân tin vào sự tất thắng của sự nghiệp cách mạng, quyết tâm thực hiện
tốt nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Một điều rất hiển nhiên là triển vọng
phát triển của đất nước phụ thuộc đáng kể vào tư tưởng và nhận thức của con người.
Khi tư tưởng đã thông, thống nhất một cách nghĩ sẽ biến ý chí thành hành động,
làm cho triệu người đồng lòng, chung sức, tạo thành lực lượng vật chất to lớn
thúc đẩy xã hội tiến lên. Yếu tố cốt lõi đưa tới thống nhất tư tưởng và hành động
là niềm tin. Niềm tin trong mỗi con người là sự chắt lọc từ nhận thức và nằm
trong chiều sâu nhận thức, nhưng lại có ý nghĩa vô cùng lớn lao đối với việc định
hướng tư tưởng và định hướng hành động. Niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân
dân là keo gắn trong Đảng và giữa Đảng với nhân dân, tạo thành động lực to lớn
giúp chúng ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Để xác lập và củng
cố niềm tin, điều cần thiết nhất là phải nâng cao trình độ giác ngộ, trình độ
hiểu biết cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, đối với chúng ta, chỉ có tình cảm
là không đủ, mà phải là tình cảm cách mạng dựa trên cơ sở lý luận khoa học vững
chắc. Có như vậy mới định hướng đúng cho mỗi người khi gặp những điều kiện và
biến cố phức tạp trong một thế giới đầy xáo động, ngổn ngang, bất trắc khôn lường.
Có như vậy mới đủ kiên định trước mọi thử thách của thời cuộc./.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét