M
Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương thực
hiện đại đoàn kết toàn dân tộc vì lợi ích của nhân dân, lợi ích của quốc gia -
dân tộc Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Đoàn kết của ta không những
rộng rãi mà còn lâu dài. Đoàn kết là một chính sách dân tộc... để đấu tranh cho
thống nhất và độc lập của Tổ quốc, ta cần đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có
tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết
với họ.
Trước sau như một, Đảng Cộng sản Việt Nam nhất quán xác định
đoàn kết là giá trị cốt lõi trong kho tàng truyền thống quý báu của dân tộc và
đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, là cội nguồn sức mạnh, là động
lực chủ yếu mang đến thành công cho cách mạng Việt Nam. Đây cũng là giá trị cốt
lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh, là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho chiến lược
đại đoàn kết của Đảng Cộng sản Việt Nam đi tới thắng lợi.
Vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định đại đoàn kết toàn
dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động
lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội XIII của Đảng xác định: Khơi dậy
mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định chiến lược xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc là lấy liên minh công nhân - nông dân - trí thức làm nền
tảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng và coi đó là một nguyên tắc có ý nghĩa như là một
quy luật để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững mạnh. Sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu vì chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam được vũ
trang bởi chủ nghĩa Mác-Lênin mới đánh giá đúng vai trò, sức mạnh của nhân dân
Việt Nam trong lịch sử.
Xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải theo
nguyên tắc đảm bảo lợi ích cao nhất của quốc gia - dân tộc, quyền lợi cơ bản của
nhân dân lao động; đồng thời, quan tâm đến quyền lợi chính đáng của các tầng lớp
nhân dân
Trong mọi thời kỳ cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan
tâm xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc - thực hiện đại đoàn kết trên nguyên tắc
bảo đảm lợi ích cao nhất của quốc gia - dân tộc và quyền lợi cơ bản của nhân
dân lao động. Trước đây, trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc thì lợi ích
tối thượng chung là giải phóng dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam xác định quyền lợi
của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, dân
tộc. Nếu không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì quyền lợi của bộ
phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi được. Bước vào thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã giải quyết mối quan hệ giữa giai cấp và
dân tộc, giữa củng cố miền Bắc và giải phóng miền Nam; giữa cải thiện đời sống
của nhân dân lao động với việc xóa bỏ giai cấp địa chủ và cải tạo đối với giai
cấp tư sản dân tộc. Trong hoàn cảnh khó khăn, phức tạp lúc đó, để khối đại đoàn
kết toàn dân được tăng cường, mặt trận dân tộc thống nhất phải được mở rộng, Đảng
đã nêu nguyên tắc tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ, giàu mạnh,
coi đó là mẫu số chung để thực hiện đoàn kết dân tộc.
Tại Đại hội lần thứ XIII, Đảng xác định mục tiêu của cách mạng
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là: Phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc
đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định; phấn đấu để đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước
phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu đó cũng chính là đích đến
quy tụ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Sự đồng nhất giữa mục tiêu
cách mạng của Đảng với mục tiêu của khối đại đoàn kết toàn dân tộc cho thấy sự
hòa quyện giữa Ý Đảng - Lòng Dân; giữa mục tiêu cách mạng của Đảng với nguyện vọng
của toàn thể nhân dân, xuất phát từ nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp nhân
dân./.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét