Bàn về nội
dung, phương thức và năng lực cầm quyền của Đảng trong điều kiện mới, tưởng chừng
như cũ mà lại rất mới, có tính thời sự nóng hổi. Nói tưởng chừng như cũ là vì
khái niệm về Đảng cầm quyền đã có từ lâu, không chỉ ở các nước trên thế giới,
mà cả ở nước ta, nếu tính từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và việc thành lập
Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa năm 1945. Nói rất mới là vì sau hơn 70 năm ở
vị thế Đảng cầm quyền, trước mắt chúng ta, vẫn còn nhiều vấn đề chưa thật sự
sáng tỏ, xử lý còn lúng túng trong lý luận về đảng cầm quyền và cả trong hoạt động
thực tiễn cầm quyền của Đảng.
Nhận thức về
đảng cầm quyền
Theo Đại tự
điển Tiếng Việt, cầm quyền có nghĩa là nắm giữ chính quyền. Như vậy, đảng cầm
quyền đồng nghĩa với đảng nắm giữ chính quyền. Ở các quốc gia theo thể chế đa đảng,
các đảng chính trị với những xu hướng khác nhau, có thể cạnh tranh nhau để nắm
giữ chính quyền thông qua bầu cử dân chủ. Đảng nào giành được đa số phiếu của cử
tri và đa số đại biểu trong nghị viện thì đảng đó có quyền đứng ra thành lập
chính phủ và trở thành đảng cầm quyền. Giành được đa số phiếu tuyệt đối thì tự
mình thành lập chính phủ; nếu là đa số tương đối thì có thể liên minh với một
vài đảng hay tổ chức chính trị khác để có được đa số theo thể chế đảng liên
minh.
Ở nước ta, Đảng
Cộng sản Việt Nam, về mặt lý thuyết, sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và
việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa năm 1945, đã trở thành đảng cầm
quyền. Nhưng do những biến động của tình hình phức tạp mà sự cầm quyền đó ở một
số thời kỳ là không trọn vẹn, nhận thức của chúng ta về đảng cầm quyền cũng
chưa thật sáng tỏ. Đại thể như sau:
Từ sau Cách mạng
Tháng Tám đến ngày Toàn quốc kháng chiến (1945 - 1946), trong khi Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn hiện hữu như một nhà nước độc lập, tự do thật sự, thì
Đảng Cộng sản Việt Nam tuyên bố tự giải tán (sự thật là rút vào bí mật), cho
nên, mặc dù Đảng vẫn giữ vai trò lãnh đạo, nhưng về mặt công khai, không có được
chính danh của đảng cầm quyền.
Trong thời kỳ
kháng chiến chống Pháp, do vùng chiếm đóng của địch mở rộng, vùng tự do của ta
bị thu hẹp, quyền lực nhà nước của ta cũng chỉ thể hiện chủ yếu ở các vùng tự
do. Năm 1951, vào lúc kháng chiến bước vào giai đoạn chuẩn bị chuyển mạnh sang
tổng phản công, Đảng ta ra công khai với tên gọi Đảng Lao động Việt Nam. Đảng đề
ra Chính cương với mục tiêu cơ bản là “hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc,
phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Mục
tiêu “trước mắt là lãnh đạo toàn dân kháng chiến cho đến thắng lợi hoàn toàn”.
Qua bản Chính cương và thực tiễn lãnh đạo kháng chiến, Đảng ta đã công khai xác
lập vị thế lãnh đạo và cầm quyền của mình. Dẫu sao, tính chất cầm quyền của Đảng
ở thời kỳ này cũng chưa thật sự rõ nét.
Trong các thời
kỳ tiếp theo - thời kỳ miền Bắc hoàn toàn giải phóng, bước vào xây dựng chủ
nghĩa xã hội (1955 - 1975) và nhất là thời kỳ sau khi nước nhà thống nhất, cả
nước cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội (từ năm 1975 đến nay), từ làm chủ hoàn toàn
nửa nước đến làm chủ toàn bộ đất nước, có thể nói vai trò và vị thế lãnh đạo, cầm
quyền của Đảng được xác lập vững chắc hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, Đảng vẫn phải
thường xuyên đối mặt với biết bao khó khăn, thách thức. Bởi trong hoạt động
lãnh đạo của mình, Đảng không chỉ có thành công mà còn có cả thất bại, dù chỉ
là tạm thời hay cục bộ. Đảng ta rút ra bài học lớn: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng
là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Nói phương thức
lãnh đạo của Đảng phải vận dụng linh hoạt cho từng đối tượng, không máy móc áp
đặt phương thức lãnh đạo đối tượng này cho đối tượng khác, không có nghĩa là
không có những nguyên tắc cơ bản mà cả 5 loại phương thức lãnh đạo đều phải
tuân thủ. Theo Cương lĩnh của Đảng, đó là: Một, Đảng lãnh đạo bằng Cương lĩnh,
chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên
truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra giám sát và bằng hành động
gương mẫu của đảng viên. Hai, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản
lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất
vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Ba, Đảng lãnh
đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên trong các tổ chức của hệ thống chính trị,
tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Bốn, Đảng thường
xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh
mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ
thống chính trị. Năm, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của
hệ thống ấy. Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của
nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Tuy không trực
tiếp đề cập phương thức cầm quyền, nhưng trong đổi mới phương thức lãnh đạo nói
chung, Đảng đặc điệt chú trọng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước. Đó là: Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng các chủ trương, chính sách lớn,
lãnh đạo thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành chính
sách, pháp luật, lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất và
năng lực, lãnh đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách và
hệ thống pháp luật; chú trọng lãnh đạo đổi mới, nâng cao chất lượng lập pháp, cải
cách hành chính và cải cách tư pháp; các tổ chức của Đảng và đảng viên phải
gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và pháp luật./.
CĐT-H4
0 nhận xét:
Đăng nhận xét