Trải qua 91 năm chèo
lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua bao sóng gió, thác ghềnh đến bến bờ
thắng lợi đã chứng minh một sự thật không thể chối cãi rằng: không một tổ chức
nào đủ khả năng lãnh đạo đất nước, ngoài đảng cộng sản Việt Nam. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng, nhân dân ta đứng lên khai tử chế độ thực dân, đế quốc, làm nên
những cuộc chiến vệ quốc vĩ đại nhất trong thế kỷ 20, đập tan âm mưu diễn biến
hòa bình, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch. Đánh tan Fulro và bè lũ
Việt Tân do Hoàng Cơ Minh cầm đầu và các mưu đồ khủng bố, kích động bạo loạn;
xây dựng một Việt Nam hòa bình, ổn định có cơ đồ, tiềm năng, vị thế và uy tín
như hôm nay.
Nhìn lại suốt quá
trình trong lịch sử của cách mạng Việt Nam có thể thấy, cuối những năm 80, đầu
thập niên 90 của thế kỷ trước, Liên Xô - hòn đá tảng và là “anh cả” của CNXH đã
sụp đổ; kéo theo đó là các nước ở Đông Âu cũng vì thế mà sụp đổ theo. Nhiều
người cho rằng, Liên Xô và các nước theo chế độ XHCN trên toàn thế giới sụp đổ
là thất bại của học thuyết Mác - Lê Nin, họ đồn đoán về sự thất bại toàn diện
trên phạm vi toàn thế giới của chủ nghĩa cộng sản. Thế nhưng tất cả đã lầm!
Việt Nam nhanh chóng nhận ra những sai lầm khuyết điểm mà đảng cộng sản Liên Xô
mắc phải, để từ đó có những quyết sách đúng đắn, kịp thời; đưa cả dân tộc tiến
lên. Thực tế cho thấy, việc Liên Xô và các nước theo con đường XHCN tan rã là
do nhiều nguyên nhân, tuy nhiên nguyên nhân chính vẫn là các vấn đề nội tại;
chính đảng viên của họ đã tiêu diệt đảng của họ. Đúng như lãnh tụ V.I.Lênin
từng nói: “Không có kẻ thù nào, dù là hung bạo nhất, có thể chiến thắng được
những người cộng sản, ngoại trừ chính họ tự tan rã, chính những lỗi lầm của họ
và họ không kịp sửa chữa”. Đảng Cộng sản Liên Xô đã trải qua rất nhiều khó khăn
thử thách và đã vượt qua tất cả: Năm 1917, 35 vạn đảng viên đã lãnh đạo giai
cấp công nhân Nga lật đổ ách thống trị của Sa hoàng, cùng nhân dân chống lại sự
can thiệp vũ trang của 14 nước để bảo vệ thành công cách mạng. Năm 1941,
5.540.000 đảng viên đã cùng nhân dân chiến thắng phát xít Đức trong cuộc chiến
tranh Vệ quốc vĩ đại, lãnh đạo công cuộc xây dựng Liên Xô trở thành siêu cường.
Vậy nhưng, năm 1991, Đảng Cộng sản Liên Xô với 20 triệu đảng viên lại sụp đổ,
không phải do kẻ thù bên ngoài, mà chính là do những mầm mống diễn biến, tự
diễn biến tư tưởng bên trong nội bộ Đảng. Phi chính trị hóa quân đội, truyền
thông, báo chí và cả xét lại lịch sử. Từ năm 1986 đến 1988, một loạt cán bộ chủ
chốt của các tờ báo có ảnh hưởng lớn tại Liên Xô được thay thế bởi những người
ủng hộ chủ trương “Tây hóa” của Gorbachev, từ đó các tờ báo này đã khuynh đảo
dư luận, làm cho nhiều người dân ảo tưởng vào phương Tây và như thế “cả đàn sói
đã chồm lên cắn vào lịch sử/ cào chiến công, xé xác những anh hùng”. Hàng loạt
tướng lĩnh và đảng viên lão thành đều bị cho nghỉ hưu để nhường cho “lớp trẻ
cấp tiến”, kinh tế chậm đổi mới, các vấn đề nội tại phát sinh cấp số nhân và
ngày càng gay gắt…Điều gì đến đã phải đến, công lao mà Lê Nin và các thế hệ
đảng viên đảng cộng sản Lên Xô trong phút chóc đã chìm xuống biển sâu! Đó là
nỗi đau đoạn trường của những người cộng sản trên thế giới và là bài học máu
xương cho chúng ta.
Với bản lĩnh chính
trị vững vàng, Đảng cộng sản Việt Nam không hề hoảng loạn hay hoang mang, giao
động; vẫn trung thành với Chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Một
mặt sáng tạo, đổi mới phù hợp với tình hình Việt Nam, một mặt mở rộng quan hệ
quốc tế; chủ động đối thoại với Mỹ, Trung để bình thường hóa quan hệ. Những năm
cuối thập niên 80, đầu 90 của thế kỷ XX, Việt Nam đối diện với muôn trùng gian
khó, tưởng chừng không thể gượng dậy được. Giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước chưa lâu, lại phải đánh Pôn Pốt và quân bành trướng Bắc kinh, kéo dài đến
cuối những năm 80. Đất nước kiệt quệ về kinh tế, bị tàn phá nặng nề; bị cấm vận
kéo dài. Sau ngày Liên Xô sụp đổ, chúng ta đã khó lại càng khó hơn. Yêu cầu cấp
bách là phải đổi mới, nói như cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh là “những việc cần
làm ngay”. Ta dần dân tháo được những khó khăn, bình thường hóa quan hệ với
Trung Quốc năm 1991 và Hoa Kỳ là 1995, cùng năm 1995, ta trở thành thành viên
Asean, tổ chức ban đầu lập ra là để chống Việt Nam và chủ nghĩa cộng sản. Ngày
nay, ta quan hệ trên bình diện rộng, vừa làm bạn được với cả Mỹ - Trung, vừa
làm bạn được với Hàn Quốc – Triều Tiên…đó là sự sáng suốt trong đường lối ngoại
giao của đảng; tạo dựng môi trường hòa bình, thu hút đầu tư để phát triển đất
nước, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Từ 1995
đến nay, chúng ta mới được yên để tập trung phát triển kinh tế - xã hội, củng
cố quốc phòng - an ninh. Từ chỗ bị cô lập, đến nay ta đã thiết lập mối quan hệ
với gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Từ chỗ đói ăn trước đổi mới mà trở thành
quốc gia có thu nhập trung bình; nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc. Dân lấy
ăn làm trời; nghĩa là họ chỉ cần biết tự do, ấm no, hạnh phúc và phẩm giá là
tiêu chí hàng đầu và chính đảng Cộng sản Việt Nam đã đem lại cho nhân dân Việt
Nam điều đó.
Nhìn lại lịch sử của
cách mạng Việt Nam gắn với vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, có thể
khẳng định rằng: sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định hàng đầu đưa cách
mạng Việt Nam đến thắng lợi. Mặc dù Liên Xô và các nước theo CNXH sụp đổ nhưng Đảng
ta vẫn vững vàng; chế độ ta vẫn chiếm trọn niềm tin yêu và cả trái tim của nhân
dân Việt Nam đời đời văn hiến. Điều đó chứng minh rằng: Liên Xô sụp đổ là do
tự chính tay họ đã tạo ra chứ không phải là thất bại của Chủ nghĩa Mác - Lê
Nin; sai lầm khuyết điểm không thể vãn hồi đó chính là bài học xương máu để
Đảng ta lấy làm gương tự sửa đổi, tự chấn chỉnh mình. Trong không khí hân hoan
chào mừng kỷ niệm 91 năm ngày thành lập đảng cộng sản Việt Nam
(03/2/1930-03/2/2021) và thành công rực rỡ của Đại hội Đại biểu lần thứ XIII
của Đảng; nhân dân Việt Nam tin tưởng sâu sắc vào sự lãnh đạo của Đảng sẽ đưa
đất nước ta sánh vai với các cường quốc năm
châu, như lúc tâm nguyện sinh thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh./.
NXT-H1
0 nhận xét:
Đăng nhận xét