CHÀO MỪNG ĐẾN VỚI BLOG GIỮ TRỌN LỜI THỀ

Nhân đọc lá thư “Cu Tèo” gửi Tổng thống Mỹ Donald Trump

(giữ trọn lời thề) - Cuối cùng, Tèo chả “xin” được gì cả, nên đành cố vớt vát, mách cho cụ “Trăm” mấy chiêu những mong cụ thương tình...

Ổn định chính trị - xã hội là cơ sở để chiến thắng "Diễn biến hòa bình"

(giữ trọn lời thề) - “Diễn biến hoà bình” đã và đang được các thế lực thù địch coi là chiến lược tối ưu để thủ tiêu chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới...

Đẩy mạnh học tập tư tương đạo đức Hồ Chí Minh gắn với chống suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên

kllvobi.blogspot.com - Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống nhân ái...

Tư tưởng Hồ Chí Minh - giá trị không thể phủ nhận

(giữ trọn lời thề) - Tư tưởng Hồ Chí Minh - tài sản tinh thần quý báu của Đảng và dân tộc Việt Nam...

Đáng thương cho Nguyên Thạch: Phận chó cắn càn!

(giữ trọn lời thề) - Quê hương đích thực không cần những cá nhân vô đạo, ăn cháo đá bát, cõng rắn cắn gà nhà...

Hiển thị các bài đăng có nhãn DIỄN BIẾN HÒÀ Bình. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn DIỄN BIẾN HÒÀ Bình. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 27 tháng 12, 2022

THỰC CHẤT CỦA QUAN ĐIỂM “DÂN SỰ HÓA” QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM

 

Hiện nay, trên không gian mạng xã hội đang lan truyền quan điểm “dân sự hóa” Quân đội, với những thủ đoạn che giấu tinh vi của các thế lực thù địch, đã khiến cho không ít người nhẹ dạ cả tin. Vì vậy, việc nhận diện kịp thời và phê phán sự phi lý, phản động của quan điểm “dân sự hóa” Quân đội là việc làm cấp thiết trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.

Một số học giả nước ngoài đang ra sức tuyên truyền cho quan điểm “siêu giai cấp” của Quân đội, “dân sự hóa” Quân đội và đi đến kết luận: Quân đội là công cụ của toàn xã hội. Họ cho rằng, "sự tồn tại của Quân đội là cần thiết để bảo đảm cho hoạt động bình thường của bất kỳ hệ thống xã hội nào. Vì vậy, Quân đội là tổ chức đứng ngoài xã hội và không có bản chất giai cấp; là lực lượng vũ trang “trung lập về chính trị” và phải được “dân sự hóa” triệt để”. Thực chất của quan điểm trên nhằm thực hiện mưu đồ “vô hiệu hóa” quân đội ở các nước xã hội chủ nghĩa dẫn đến dao động về tư tưởng, mất phương hướng chính trị, phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, hướng tới xóa bỏ quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam. Đây là một thủ đoạn nham hiểm trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động.

Bên cạnh đó, một số người còn viện dẫn vào học thuyết “Tam quyền phân lập”, ở một số nhà nước tư sản đã ban hành luật thể hiện “dân sự quản lý quân sự”, quân đội tách ra khỏi sự ảnh hưởng, chi phối của đảng phái. Điều này là hoàn toàn không đúng trong thực tế.

Bởi lẽ, phía sau chính phủ vẫn là một chính đảng đảng cầm quyền (hoặc chi phối chính sách của chính phủ). Các đảng cầm quyền vẫn can thiệp vào quản lý nhà nước về quốc phòng. Với tính cách là một hiện tượng chính trị-xã hội, bất cứ quân đội nào trong lịch sử cũng mang bản chất giai cấp sâu sắc. Sự quyết định bản chất giai cấp của một quân đội là ở chỗ: Quân đội đó là chỗ dựa của chế độ chính trị-xã hội nào; hoạt động của quân đội đó bảo vệ lợi ích cho giai cấp nào và bản chất giai cấp của nó phụ thuộc một cách trực tiếp vào bản chất giai cấp của nhà nước đã tổ chức ra quân đội đó. Bản chất giai cấp của quân đội còn được thể hiện trong quá trình xây dựng và tổ chức quân đội. Giai cấp thống trị bảo đảm sự vững mạnh về chính trị của quân đội, bảo đảm phương hướng phát triển và hoạt động của quân đội phù hợp với lợi ích của giai cấp đó. Để giữ vững phương hướng chính trị và tăng cường bản chất giai cấp cho quân đội, giai cấp thống trị tiến hành truyền bá hệ tư tưởng của nó cho quân đội bằng hệ thống giáo dục có tính chất áp đặt về tư tưởng cho binh lính; thực hiện triệt để đường lối tổ chức, phương hướng hoạt động và kiểm soát mọi hoạt động của quân đội. Điều này đã được ghi nhận theo điều lệnh quân đội Mỹ, sĩ quan chỉ huy chịu trách nhiệm về giáo dục tư tưởng và tinh thần binh sĩ. Quân đội Mỹ duy trì cả một bộ máy tuyên truyền gọi là “cơ quan thông tin và giáo dục quân đội” để tiến hành công tác tư tưởng. Trong các quân chủng của quân đội Mỹ đều có cơ quan thông tin. Bên cạnh việc lãnh đạo công tác tuyên truyền, cổ động, cơ quan này còn chuẩn bị và xuất bản những sách giáo khoa về tư tưởng, những tài liệu phát thanh, báo chí, phát hành những phim ảnh ca tụng chủ nghĩa tư bản.

Như vậy, sự ra đời, tồn tại và phát triển của quân đội luôn gắn với vai trò của giai cấp và nhà nước. Thực tế cho thấy, giai cấp và nhà nước luôn giữ vai trò quyết định đối với quân đội về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Về chính trị, giai cấp và nhà nước quyết định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu và các chức năng, nhiệm vụ cơ bản của quân đội. Đồng thời, hệ tư tưởng của giai cấp đó luôn giữ vai trò thống trị đối với quân đội, chi phối đến đời sống tinh thần của quân đội. Về tổ chức, giai cấp và nhà nước quyết định đường lối, nguyên tắc tổ chức xây dựng quân đội; quyết định cơ chế lãnh đạo, thành phần chỉ huy và binh lính tham gia trong quân đội.

Bên cạnh đó, hoạt động của quân đội phụ thuộc vào chế độ chính trị-xã hội, chịu sự quy định của giai cấp và nhà nước tổ chức ra nó. Là một bộ phận của chỉnh thể xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng, quá trình phát triển của quân đội tất yếu chịu sự chi phối, tác động của các quy luật xã hội nói chung.

Trong các yếu tố ảnh hưởng đến bản chất giai cấp của quân đội, yếu tố giai cấp luôn tác động trực tiếp, mạnh mẽ và quyết định nhất. Quân đội nào cũng do nhà nước tổ chức ra và chịu sự chi phối bởi đường lối chính trị của một giai cấp. Bài học xương máu của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cho thấy, khi đảng cộng sản mất vai trò lãnh đạo, sự biến chất của nhà nước là không tránh khỏi và hậu quả tất yếu của nó là làm cho quân đội mất phương hướng chính trị. Mặc dù năm 1991, Hồng quân Liên Xô có quân số hơn 3 triệu người nhưng đã không bảo vệ được chế độ xã hội chủ nghĩa sụp đổ. Đó là bi kịch lớn của lịch sử!

Quân đội nhân dân Việt Nam ra đời ngày 22-12-1944 từ những tổ chức vũ trang tiền thân trong phong trào đấu tranh cách mạng giành độc lập, tự do của dân tộc, do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp sáng lập, tổ chức, lãnh đạo. Lịch sử cách mạng Việt Nam đã khẳng định tính tất yếu, đặc thù ra đời và vai trò to lớn của Quân đội nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Bởi vậy, về bản chất, Quân đội nhân dân Việt Nam là Quân đội kiểu mới, công cụ bạo lực vũ trang của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc.

Là công cụ bạo lực vũ trang chủ yếu của nhà nước xã hội chủ nghĩa, Quân đội nhân dân Việt Nam cùng với các giai cấp, thành phần của toàn dân tộc tiến hành đấu tranh chống lại các thế lực xâm lược để giành độc lập dân tộc và thực hiện thống nhất nước nhà. Sau khi đất nước độc lập, thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Thực tế lịch sử đấu tranh cách mạng cho thấy, từ khi ra đời đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Quân đội ta luôn hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao phó. Bản chất giai cấp công nhân và truyền thống vinh quang của Quân đội ta đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Nhưng thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của hơn 35 năm đổi mới toàn diện đất nước, có sự đóng góp rất quan trọng của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Là Quân đội kiểu mới do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, vì vậy, Quân đội nhân dân Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân sâu sắc. Bản chất đó được biểu hiện sâu sắc ở mục tiêu, lý tưởng chiến đấu; hệ tư tưởng và nguyên tắc tổ chức xây dựng Quân đội. Đảng Cộng sản Việt Nam và nhà nước xã hội chủ nghĩa quyết định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu; quyết định các nguyên tắc tổ chức và cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội. Hệ tư tưởng trong Quân đội nhân dân Việt Nam là Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã hiến định chương IV về bảo vệ Tổ quốc, bao gồm các Điều 64 đến Điều 68 đã thể hiện đầy đủ, sâu sắc quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về bảo vệ Tổ quốc.

Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới và bảo đảm sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; kiên định, giữ vững nguyên tắc Đảng Cộng sản Việt Nam là người tổ chức và lãnh đạo, Nhà nước quản lý Quân đội nhân dân Việt Nam-là nhân tố quyết định sự trưởng thành và chiến thắng của Quân đội và là nhân tố bảo đảm chính trị của Quân đội ta.

Các thế lực thù địch, phản động từ trước đến nay cũng hiểu rất rõ điều đó. Do vậy, chúng luôn tìm mọi cách công kích, phá hoại, nhằm tiến tới loại bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, trong đó có quan điểm “dân sự hóa” Quân đội, tạo nguyên cớ cho các thế lực có thâm thù với cách mạng tiến hành “cuộc chiến không đánh mà thắng”, tiến tới xóa bỏ hoàn toàn chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Vì vậy, việc nhận diện kịp thời và phê phán sự phi lý, phản động của quan điểm “dân sự hóa” Quân đội là việc làm cấp thiết trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay. Việc phát huy sức mạnh tổng hợp các tổ chức, các lực lượng trong phòng, chống luận điệu “dân sự hóa” Quân đội, góp phần tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, suy cho cùng cũng là bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội nhân dân Việt Nam./.

PVĐ-H4

Thứ Năm, 8 tháng 12, 2022

ĐỪNG ĐỂ THÔNG TIN TRÊN INTERNET ĐIỀU KHIỂN

 

Trong thời đại công nghệ thông tin việc giao lưu chia sẻ tin tức ngày càng dễ, bên cạnh những lợi ích còn tồn tại không ít những tiêu cực như thông tin thật, giả lẫn lỗn, sự kích động của các thế lực phản động…

Tôi quen một bác cán bộ đã nghỉ hưu, từng có nhiều năm công tác và có những đóng góp nhất định tại một bộ nọ. Thời gian gần đây, bác liên tục thể hiện trên facebook một trạng thái tâm lý và những phát ngôn tiêu cực về thực trạng đất nước. Theo cách nhìn của bác thì bất cứ lĩnh vực nào của Việt Nam cũng "rất tệ hại". Với những thành tựu trong phát triển kinh tế thì bác cho rằng số liệu không đúng. Với kết quả rõ ràng của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, bác lại cho rằng đó chẳng qua là đấu đá trong nội bộ Đảng. Hay kể cả niềm vui sau những thành công vang dội của bóng đá Việt Nam, bác cũng lắc đầu bảo là do ăn may. Quan sát cách cán bộ nghỉ hưu này thu thập, tiếp nhận thông tin, tôi phần nào lý giải được tại sao bác lại có một thế giới quan nhiều màu xám. Ấy là do bác chủ yếu chỉ tiếp nhận thông tin qua mạng xã hội facebook, youtube, những trang thông tin mù mờ trên mạng, hoặc những trang thông tin của các tổ chức, đối tượng chống phá Đảng, Nhà nước. Bác nhầm lẫn cho rằng, những trang thông tin ấy "dám nói thẳng, nói thật" vào những vấn đề mà các cơ quan báo chí chính thống không dám đề cập. Đáng lo ngại là không chỉ các cán bộ đã nghỉ hưu mà ngay cả những cán bộ đang đương chức nếu không tỉnh táo, không có bản lĩnh vững vàng thì cũng rất dễ bị lừa phỉnh, bị ăn phải "bả thông tin".

Mấy ngày gần đây, liên quan đến sự việc cơ quan công an bắt bà Trương Mỹ Lan, Chủ tịch Tập đoàn Vạn Thịnh Phát, xuất hiện những tin đồn, những lời xì xầm to nhỏ, những thuyết âm mưu là vụ việc liên quan đến vị lãnh đạo này, quan chức kia, rồi những sự đổ vỡ... Các thông tin được thổi phồng, cắt ghép, khớp nối có vẻ hợp lý, nếu người nghe thiếu hiểu biết, không đủ bản lĩnh thì rất dễ mắc bẫy, sẽ tin vào những thông tin xuyên tạc đó. Khi hỏi những người lan truyền thông tin là họ nghe thông tin từ đâu, thì họ nói rằng nghe trên đài, trên báo. Hỏi kỹ hơn là: “Đài, báo nào?” thì họ kể ra một loạt cái tên, hóa ra lại là toàn các trang mạng điện tử chuyên đưa thông tin phản động, các trang thông tin mù mờ không rõ ràng về nguồn gốc. Mặc dù trên Đài Truyền hình Việt Nam đã có những lãnh đạo đầu ngành trả lời rất rõ ràng về các vấn đề liên quan đến vụ việc này, thế nhưng vẫn có người bán tín, bán nghi, vẫn xì xào về các thông tin mù mờ trên mạng mà mình xem, nghe được.

Những người tiếp nhận và tin theo các thông tin mù mờ trên mạng là hết sức ngây thơ. Bởi họ không biết, hoặc biết không đầy đủ rằng các tổ chức khủng bố, phản động như Việt Tân, Hội anh em dân chủ... thiết lập rất nhiều website, blog, facebook, youtube, mở nhiều diễn đàn, câu lạc bộ nhằm tán phát các thông tin, tài liệu, hình ảnh, video clip có nội dung xấu, độc. Một số cơ quan báo chí của phương Tây như RFA, BBC Việt ngữ, hay các trang thông tin do một số đối tượng có tiền án, tiền sự, chống đối Đảng, Nhà nước ta lập ra như thoibao.de... thường xuyên đăng tải, tung những thông tin sai sự thật, xuyên tạc nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Phạm vi của các thông tin xuyên tạc là rất rộng, các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, đối ngoại, quốc phòng, an ninh... đều là "chiến địa" của chúng. Đối tượng công kích của chúng rất đa dạng từ các cơ quan Đảng, Nhà nước, các bộ, ngành địa phương, cơ quan, đơn vị cho tới các tổ chức chính trị-xã hội, từ lãnh đạo cấp cao cho tới cả các nghệ sĩ, nhà báo, doanh nhân, người nổi tiếng đều có thể trở thành mục tiêu của họ... Đến cả việc Việt Nam vừa trúng cử làm thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc thông qua phiên bỏ phiếu tại Đại hội đồng Liên hợp quốc một cách dân chủ, công khai, khách quan, chứng tỏ uy tín cao của Việt Nam trên trường quốc tế thì trên trang facebook của mình, tổ chức Việt Tân vẫn trơ trẽn xuyên tạc rằng kết quả trên chứng tỏ Việt Nam đã hoàn toàn lệ thuộc vào một nước khác (!?)...

Nhìn chung những thông tin xấu, độc đều có một mục đích là bôi đen hiện thực Việt Nam; thổi phồng những hạn chế, khiếm khuyết trong quá trình lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; xuyên tạc về cán bộ, về công tác nhân sự; phóng đại những tiêu cực trong xã hội; bóp méo các chủ trương, chính sách, luật pháp hòng gây rối tình hình đất nước; kích động, chia rẽ nội bộ, ảnh hưởng đến uy tín lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội... Từ đó tạo ra nhận thức sai lệch về hiện thực theo chiều hướng xấu, hình thành tâm lý chán ghét, phẫn nộ, thậm chí căm thù chế độ và bộ máy chính quyền các cấp.

Thông qua mạng xã hội, các phần tử xấu, cơ hội chính trị cũng điên cuồng chống phá, không từ một thủ đoạn nào, từ xuyên tạc sự thật lịch sử cho đến tìm mọi cách hạ thấp uy tín, bôi nhọ lãnh tụ Đảng ta, bài bác, hòng phủ nhận giá trị của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng ta. Các thế lực thù địch còn ra sức rêu rao: Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập là điều kiện cần thiết để thực thi dân chủ ở Việt Nam, để chống tham nhũng có hiệu quả, để bảo đảm đất nước phát triển; rằng lựa chọn con đường cách mạng vô sản, đi lên chủ nghĩa xã hội là sai lầm của dân tộc ta...

Thông thường thì những thông tin xấu, độc này lại được đăng tải dưới những chủ đề khá hấp dẫn và thu hút người đọc, bởi nó khơi gợi sự tò mò và tâm lý phản kháng, bất mãn trước những tiêu cực của một bộ phận cán bộ, quan chức. Những thông tin như vậy thường có tính kích động, tạo cảm xúc tiêu cực cho người đọc. Những kẻ thực hiện các thông tin xuyên tạc cũng rất tinh vi trong việc đưa thông tin. Thường thì chúng đưa khoảng 6-7 phần là sự thật, rồi cài 3-4 phần là xuyên tạc, suy diễn với các thuyết âm mưu vào để dẫn dắt người đọc, người xem. Nếu không thận trọng để nhận diện chính xác vấn đề, người đọc sẽ dần dần hình thành niềm tin vào các trang thông tin chống phá Nhà nước, chống phá chế độ.

Ngoài ra, còn có một số cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, phai nhạt lý tưởng, cơ hội, đầy tham vọng quyền lực cá nhân. Những người có thể sẽ phản bội lại quá khứ, phản bội lại lý tưởng, và nguyên nhân của sự phản bội đó đôi khi bắt nguồn từ sự bất mãn, không đồng ý một số vấn đề cụ thể trong chính sách, hay cách ứng xử của những cơ quan, đơn vị nơi người đó công tác. Họ rất dễ trở thành "miếng mồi ngon" cho những thông tin xấu, độc và bản thân họ cũng có thể trở thành những tác nhân của thông tin xấu, độc, cả những khiếu nại, tố cáo với mục đích không trong sáng gây nhiễu loạn nội bộ.  

Để tránh những tác hại lan truyền của thông tin xấu, độc, mỗi cán bộ, đảng viên cần xây dựng cho mình hệ miễn dịch trước thông tin xấu, độc, cần nhận thức sâu sắc, giữ vững bản lĩnh chính trị, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, với những giải pháp như sau:

Thứ nhất, thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho đảng viên về Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Thứ hai, mỗi cán bộ, đảng viên phải nghiêm túc học tập, kết hợp tự học, tự nghiên cứu nâng cao trình độ về chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị, kiến thức pháp luật, quản lý nhà nước..., hình thành thói quen chỉ tiếp nhận thông tin qua các kênh thông tin chính thống của Đảng, Nhà nước. Từ đó nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị, năng lực công tác và phông nhận thức, hiểu biết, tạo thành bản lĩnh vững vàng trước các thông tin xấu, độc.

Thứ ba, các tổ chức đảng trong sinh hoạt thường kỳ nên lồng ghép những buổi sinh hoạt tư tưởng, nhanh nhạy nắm bắt, phát hiện các thông tin xấu, độc, bịa đặt lan truyền trong xã hội, đặc biệt là trên không gian mạng để kịp thời có sự định hướng bằng những thông tin đúng đắn, các luận điểm thuyết phục để phản bác, hạn chế sự lan tỏa, ảnh hưởng của các luồng thông tin xấu, độc trong đơn vị.

Thứ tư, các tổ chức trong hệ thống chính trị, cơ quan nhà nước cần phát huy vai trò của báo chí, truyền thông; chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động báo chí, truyền thông, xuất bản; tăng tính đấu tranh của báo chí với các thông tin xuyên tạc. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý và sử dụng internet, mạng xã hội, trong đó chú trọng xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.

Thứ năm, các cấp ủy và tổ chức đảng, mọi cán bộ, đảng viên phải chấp hành nghiêm kỷ luật phát ngôn; nghiêm cấm để lộ bí mật của Ðảng, Nhà nước, nghiêm cấm lan truyền những thông tin sai lệch hoặc tán phát những đơn thư nặc danh, mạo danh có nội dung xấu, xuyên tạc, vu khống, kích động.

Để những thông tin xấu, độc không còn đất dung thân thì cán bộ, đảng viên phải giữ vững lập trường, quan điểm, giữ gìn đạo đức, lối sống trong sáng, bình tĩnh trong việc tiếp nhận thông tin, kiểm chứng thông tin, thận trọng trong lan truyền thông tin. Đồng thời, việc cung cấp thông tin chính thống kịp thời, đúng đắn, chính xác của các cấp ủy đảng, chính quyền, cơ quan chức năng, cơ quan báo chí sẽ có tác động rất lớn giúp cho đảng viên và nhân dân có thêm kiến thức, sự hiểu biết và tư tưởng ổn định, giúp loại bỏ các khoảng trống cho thông tin xấu, độc.

NAT-BC

Thứ Tư, 30 tháng 11, 2022

NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG TA

 


 Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng. Đảng nhất định phải có chủ nghĩa làm cốt. Nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là sự lựa chọn đúng đắn, xuất phát từ những cơ sở khoa học sau:

Một là, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam.

Bất cứ một đảng chính trị nào cũng phải lựa chọn một hệ tư tưởng nhất định làm cơ sở để tập hợp lực lượng, thống nhất ý chí và hành động. Các chính đảng của giai cấp tư sản bao giờ cũng lựa chọn hệ tư tưởng tư sản. Các chính đảng mácxít - đảng của giai cấp công nhân bao giờ cũng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng. Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Việc kêu gọi Đảng ta từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thực chất là mưu đồ muốn làm thay đổi bản chất chính trị, giai cấp của Đảng, hòng làm cho Đảng ta tự tan rã.

Hai là, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một học thuyết khoa học và cách mạng, là vũ khí lý luận sắc bén để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, xây dựng một chế độ xã hội mới tiến bộ hơn, tốt đẹp hơn.

Chủ nghĩa Mác - Lênin là sản phẩm của sự kế thừa và phát triển sáng tạo những thành tựu tư tưởng loài người về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, được bổ sung, kiểm nghiệm bởi thực tiễn đấu tranh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Ngày nay, thế giới đã có nhiều thay đổi so với thời của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin. Nhưng những thay đổi đó chưa vượt ra khỏi những quy luật cơ bản mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã khái quát. Mặc dù đã có nhiều thay đổi bên ngoài để thích nghi nhưng bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản vẫn không hề thay đổi. Vẫn còn đó mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, giữa xã hội hóa lực lượng sản xuất ngày càng cao với sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất ngày càng lỗi thời, chật hẹp. Các cuộc khủng hoảng tất yếu của chủ nghĩa tư bản vẫn diễn ra. Trước sự bế tắc của chủ nghĩa tư bản trong giải quyết vấn đề công bằng xã hội, nhiều người lại tìm đọc các tác phẩm của C.Mác. Nhà sử học người Anh Êrích Hôxbon đã nói rằng: Chính là những người tư bản, chứ không phải ai khác, đã tái phát hiện Mác.

Ba là, nguyên nhân sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là do thiếu kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin.

Nhiều công trình nghiên cứu lịch sử đã khẳng định, nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp của sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu bắt nguồn từ chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa xét lại trong đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức của đảng cầm quyền, bắt nguồn từ sự phản bội những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Bốn là, thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh, Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn đèn soi sáng con đường giành độc lập, tự do cho dân tộc và đem lại hạnh phúc cho nhân dân.

Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, con đường giải phóng dân tộc Việt Nam rơi vào bế tắc. Phong trào đấu tranh của nhân dân ta nổ ra khắp nơi nhưng đều bị thất bại, bị “dìm trong bể máu”. Hệ tư tưởng phong kiến, hệ tư tưởng tư sản, tiểu tư sản, nông dân đều không có khả năng tập hợp quần chúng nhân dân để giải phóng dân tộc, xây dựng xã hội mới tốt đẹp hơn. Chỉ khi Nguyễn Ái Quốc tiếp cận được với chủ nghĩa Mác - Lênin, truyền bá và vận dụng sáng tạo vào Việt Nam, tổ chức ra Đảng Cộng sản Việt Nam thì cách mạng Việt Nam mới đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, giải phóng được dân tộc và đưa cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.

Trên đây là những cơ sở khoa học cơ bản khẳng định việc lựa chọn và kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn. Mọi người dân Việt Nam hãy cảnh giác với luận điệu chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù địch đối với nền tảng tư tưởng của Đảng ta, hiện thực hóa quan điểm Đại hội XIII của Đảng: “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị”./.

CĐT-H4

Thứ Ba, 22 tháng 11, 2022

HÃY CẢNH GIÁC VỚI THỦ ĐOẠN XÉT LẠI LỊCH SỬ

 

Với dã tâm thâm độc, lòng thù hận, các thế lực thù địch, xét lại, cơ hội chính trị đã cố tình bôi đen, xuyên tạc, phủ nhận sự thật lịch sử; khoét sâu, thổi phồng sai lầm, khuyết điểm, nhằm tuyên truyền sai lệch, làm cho một bộ phận quần chúng thiếu hiểu biết về lịch sử dân tộc, nhất là giới trẻ hoài nghi, phai nhạt niềm tin đối với Đảng, chia rẽ  Đảng với Nhân dân, làm suy yếu, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Chúng lật lại những thông tin, sự kiện cũ, nhưng lại suy diễn, xuyên tạc bằng “cái nhìn mới” để kích thích người nghe, người xem

Một trong những sự kiện lịch sử mà các thế lực thù địch "xét lại", đó là sự kiện Cải cách ruộng đất (1954). Các thế lực thù địch đã ra sức thổi phồng, xuyên tạc rằng: “Cải cách ruộng đất ở miền Bắc là cuộc “thanh trừng”, “tắm máu”; những khuyết điểm đó bắt nguồn từ sự sai lầm của Đảng khi đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin, thực hiện chuyên chính vô sản hà khắc”.

Cải cách ruộng đất ở miền Bắc diễn ra từ năm 1953 đến năm 1956, với mục đích: thủ tiêu quyền chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ, tư sản; chia ruộng đất cho nông dân, thực hiện “Người cày có ruộng”. Đây là việc làm tất yếu của cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam, trong bối cảnh xã hội có hơn 90% là nông dân và là một trong những phương thức chủ yếu để lập lại công bằng xã hội, làm cơ sở để xây dựng chế độ mới, chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn đầu, cuộc Cải cách thu được kết quả tốt, trở thành động lực tinh thần mạnh mẽ thúc đẩy kháng chiến, góp phần làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Cải cách ruộng đất đã được thực hiện ở 3.314 xã với hơn 08 triệu dân, tịch thu hơn 70 vạn héc ta (44,6%) ruộng đất chia cho nông dân, tạo ra bước phát triển vượt bậc trong sản xuất nông nghiệp. Trong quá trình thực hiện, do nóng vội, nên việc thi hành cải cách ruộng đất có nơi bị mất kiểm soát, thực hiện không đúng chỉ đạo của Trung ương, gây ra những tổn thất cho cách mạng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nhận ra sai lầm, khuyết điểm, Đảng ta đã nhìn thẳng vào sự thật, công khai nhận khuyết điểm và hành động quyết liệt để sửa chữa, khắc phục và luôn coi đó là bài học kinh nghiệm quý trong công tác xây dựng Đảng sau này.

Trong thư gửi đồng bào nông thôn và cán bộ nhân dịp cải cách ruộng đất ở miền Bắc căn bản hoàn thành đăng trên Báo Nhân dân, số 897, ra ngày 18/8/1956, Hồ Chủ tịch đã viết: “Trung ương Đảng và Chính phủ đã nghiêm khắc kiểm điểm những sai lầm, khuyết điểm ấy và đã có kế hoạch kiên quyết sửa chữa, nhằm đoàn kết cán bộ, đoàn kết nhân dân, ổn định nông thôn, đẩy mạnh sản xuất”. Thực tế đã chứng minh, nhân dân vẫn giữ trọn niềm tin với Đảng; dưới sự lãnh đạo của Đảng, khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố ngày càng vững chắc, cách mạng Việt Nam đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Như vậy, rõ ràng, việc cố tình đem các sự kiện lịch sử ra xét lại, hòng bôi nhọ, xuyên tạc đường lối của Đảng, Nhà nước là một thủ đoạn rất thâm độc mà các thế lực thù địch đang tiến hành. Mỗi người cần hết sức cảnh giác, tiếp nhận thông tin có chọn lọc, có sự phản biện và biết đấu tranh, phê phán./.

BL-H2

Thứ Tư, 16 tháng 11, 2022

ĐƯA NGHỊ QUYẾT VÀO CUỘC SỐNG

 

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng nói chung, đổi mới phương thức lãnh đạo bằng nghị quyết nói riêng, là một nội dung quan trọng được Hội nghị Trung ương 6, khóa XIII của Đảng tập trung thảo luận, gợi mở nhiều vấn đề mới. Đáng chú ý là các đồng chí Trung ương đã thẳng thắn đúc rút: Để sớm đưa nghị quyết vào cuộc sống thì trước hết phải đưa cuộc sống vào nghị quyết!

Có nghĩa là phải lấy thực tiễn làm căn cứ, cơ sở quan trọng để xây dựng nghị quyết; là môi trường, điều kiện vận hành nghị quyết; đồng thời là thước đo, chân lý kiểm nghiệm tính khả thi, hiệu quả lãnh đạo bằng nghị quyết.

Thời gian qua, không ít tổ chức cơ sở đảng xây dựng nghị quyết chủ yếu bám vào chủ trương, giải pháp của cấp trên và xem đó như một căn cứ duy nhất và cao nhất. Nói cách khác là nghị quyết cấp trên xác định thế nào thì cấp dưới cứ thế “sao chụp”, mà quên rằng thực tiễn mới là căn cứ quan trọng hàng đầu. Thành thử, ở nhiều nơi, nghị quyết khi được ban hành thường có nội dung chung chung, phương phưởng; dù “đúng” đường lối, nhưng chưa “trúng” với đòi hỏi thực tiễn.

Để nghị quyết sát thực tiễn, việc hết sức quan trọng là tổ chức đảng nơi ấy phải xác định bằng được, rằng địa phương, cơ quan, đơn vị mình đang cần gì, khả năng lãnh đạo đến đâu, dự báo kết quả đạt được như thế nào, vấn đề lãnh đạo trọng tâm, những ưu tiên trước mắt và chiến lược lâu dài... Có nghĩa, tinh thần nghị quyết tất yếu phải bám sát chủ trương của trên, nhưng chất liệu thực tiễn mới là phần lõi của nội dung nghị quyết. Khảo sát một số tỉnh ở địa bàn Tây Nguyên cho thấy, nhiều đảng bộ cấp huyện, xã có xu hướng quy kết con số phần trăm (%) về con số thực trên thực tế gắn với địa bàn. Ví như, nghị quyết cấp trên xác định phải giảm 5% hộ nghèo/năm thì về đến cấp huyện, cấp xã phải cụ thể 5% ấy tương ứng với bao nhiêu hộ trên địa bàn; rồi cân nhắc xem có nâng lên hay hạ xuống về chỉ tiêu hay không; thực hiện số lượng ấy bằng cách nào... Cũng ở những địa phương này, con số phần trăm được nhìn nhận, đánh giá hết sức linh hoạt, phù hợp. Đều đạt 1% chỉ tiêu, nhưng ở địa phương này là một thành tích đáng ghi nhận; nhưng tại nơi khác thì đó là khuyết điểm lớn trong công tác lãnh đạo. Có nghĩa, kết quả lãnh đạo được đánh giá thực chất, chứ không cào bằng.

Công bằng mà nói, đưa thực tiễn vào nghị quyết là việc khó, đòi hỏi sự linh động, sáng tạo, cho nên khi chủ trương đã được quyết nghị, ban hành thì không cứ xem đó là “chiếu lệnh” để bằng mọi giá hiện thực một cách cứng nhắc; hoặc dùng các thủ thuật để thổi phồng thành tích, hòng "báo công" hay "tự đắc" rằng tổ chức mình đã lãnh đạo hoàn thành 100% chỉ tiêu. Đó là tư duy và cách làm sai lệch, thậm chí là vi phạm quy định, kỷ luật Đảng. Theo nghĩa đó, nghị quyết dù đã ban hành, nhưng phải căn cứ vào diễn biến thực tiễn để không ngừng nghiên cứu, hoàn thiện, bổ sung, điều chỉnh... sao cho thật hợp lý, có tính khả thi cao.

Thực tiễn không chỉ là căn cứ xây dựng nghị quyết, là mảnh đất màu mỡ để hiện thực chủ trương mà quan trọng hơn, thực tiễn còn là tiêu chí, thước đo đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết. Ấy nhưng vẫn còn không ít tổ chức cơ sở đảng đánh giá kết quả nghị quyết nặng cảm tính, áp đặt, xa rời thực tế, thiếu định lượng... Thậm chí, có nơi tổng kết nghị quyết nhưng nội hàm, nội dung lại chẳng khác gì một báo cáo thành tích; chưa hướng trọng tâm vào việc nêu bật cách thức, phương thức, kinh nghiệm lãnh đạo. Những bài học mạnh-yếu thường được “sao chép”, chỉnh sửa lại từ nghị quyết cũ; ưu điểm thì dài dòng, nhưng khuyết điểm thì chỉ thể hiện ở một vài “gạch đầu dòng” ngắn ngủi...

Để sớm đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống thì việc cần kíp hiện nay là phải quyết liệt đổi mới tất cả các nhân tố, các khâu, các bước, từ việc xây dựng nghị quyết, tổ chức học tập, lãnh đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra giám sát, đánh giá tổng kết... trên cơ sở bám sát thực tiễn sinh động. Phải đổi mới đồng bộ, nhưng có ưu tiên, chọn khâu đột phá, làm đồng thời ở tất cả các cấp trong hệ thống tổ chức đảng. Có vậy thì nghị quyết mới thật sự là văn kiện giá trị, được đúc rút, tổng kết từ thực tiễn và quay trở lại “soi đường” cho thực tiễn./.

CĐT-H4

 

CẢNH GIÁC TRƯỚC LUẬN ĐIỆU CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH VỀ CHUYẾN CÔNG TÁC CỦA TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG

 

Ngay sau khi Ban Đối ngoại Trung ương Đảng ra thông báo về chuyến thăm chính thức Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa của đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Trên các diễn đàn, hội, nhóm của các thế lực phản động, cơ hội chính trị các bài viết chống phá, xuyên tạc về công tác đối ngoại của Đảng, nhà nước và nhân dân ta xuất hiện với tần suất lớn.

Sau khi thông báo được phát đi, nhân dân trong nước và kiều bào ta ở nước ngoài đã bày tỏ sự vui mừng trước sức khỏe của Tổng Bí thư, đồng thời tin tưởng tuyệt đối vào quyết sách của Đảng, Nhà nước về công tác đối ngoại. Tuy nhiên, “cây muốn lặng mà gió chẳng dừng”, các thế lực phản động lại xem đây là cơ hội để ra sức chống phá. Trước tiên phải nói đến trang facebook cá nhân của đối tượng phản động Nguyễn Văn Đài, y luôn tỏ thái độ hậm hực trước sự phát triển lớn mạnh của dân tộc và các sự kiện chính trị nổi bật. Các fanpage Việt Tân của tổ chức khủng bố Việt Tân, Đài Á Châu tự do, VOA tiếng Việt... tăng tần suất các bài viết nhằm lôi kéo người dùng mạng cố tình xuyên tạc, hiểu sai về hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta.

Để thực hiện mưu đồ đó, chúng trắng trợn xuyên tạc rằng, Việt Nam đang phụ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc. Luận điệu đặc biệt nguy hiểm, nhất là trong bối cảnh hiện nay, khi Việt Nam đang đẩy mạnh mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới, hội nhập ngày càng chủ động, tích cực và sâu rộng vào đời sống chính trị, quốc tế.

Chuyến thăm, làm việc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước hiện nay là sự cụ thể hóa đường lối đối ngoại của Đảng đã được xác định tại Đại hội XIII: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại”. Trong bối cảnh hiện nay, Đảng ta xác định cần phải đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới. Chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sắp tới thể hiện đầy đủ những chủ trương của Đảng, Nhà nước ta về công tác đối ngoại. Là dịp để Việt Nam khẳng định tình đoàn kết, trao đổi những vấn đề chiến lược, góp phần tăng cường hơn nữa tin cậy chính trị giữa hai Đảng, hai Nhà nước.

Việt Nam và Trung Quốc đang tập trung xây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác, bình đẳng, cùng có lợi giữa hai nước trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau. Nhìn lại những năm qua, từ khi hai nước thiết lập quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc đã không ngừng mở rộng, ngày càng đi vào chiều sâu trên tất cả các lĩnh vực.

Rõ ràng, các thế lực thù địch đang run sợ trước sự phát triển toàn diện của Việt Nam, lo lắng về tinh thần đoàn kết quốc tế, niềm tin của Nhân dân dành cho Đảng, Nhà nước. Chuyến công du sắp tới của Tổng Bí thư tiếp tục khẳng định đường lối Đối ngoại của Đảng, đồng thời trực tiếp đập tan mọi thông tin xuyên tạc của các thế lực thù địch..

KDQ - KBS

 

 

Thứ Hai, 31 tháng 10, 2022

NHẬN DIỆN NHỮNG TRANG MẠNG XÃ HỘI CÓ NỘI DUNG XẤU, ĐỘC CHỐNG PHÁ ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

 

Những năm gần đây, thủ đoạn của các thế lực thù địch, các tổ chức phản động lưu vong, số đối tượng chống đối trong và ngoài nước triệt để lợi dụng không gian mạng, chủ yếu là các ứng dụng của mạng xã hội, biến nó thành công cụ đắc lực cho hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước ta.

Chúng tận dụng tối đa các hệ thống phát thanh, báo chí ở nước ngoài đăng tải trên các kênh Facebook, YouTube, hình ảnh, video… để tán phát thông tin xấu, độc, thiếu kiểm chứng, sai sự thật về tình hình an ninh, trật tự, khiếu nại, tố cáo, công tác quản lý, sử dụng đất đai ở địa phương dưới dạng “giả như thật”, “thật như giả” nhằm đánh vào tâm lý tò mò của người dân để xuyên tạc tình hình trong nước, chống Đảng, Nhà nước, phá hoại tư tưởng, công kích, bôi xấu, hạ uy tín các đồng chí lãnh đạo, gây chia rẽ nội bộ, làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào vai trò lãnh đạo của Đảng, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, nhất là trước, trong và sau thời gian diễn ra Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII; bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV, bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 và công tác phòng, chống dịch COVID-19.

Đặc điểm của các trang mạng, diễn đàn, nhóm, hội kín có thể nhận diện: Một là, các trang mạng chính thống của cơ quan, tổ chức nhà nước đều có tên miền quốc gia “.vn” và có địa chỉ, thông tin đăng ký cụ thể, rõ ràng trên trang. Còn các trang mạng có tên miền nước ngoài (.com, .org) không có đuôi tên miền Việt Nam “.vn”, thường được đăng ký lưu trữ dữ liệu có máy chủ đặt ở nước ngoài. Đây là điều kiện để các thế lực thù địch, phần tử phản động lưu vong tự do đăng tải các thông tin không đúng sự thật; nếu như bị các cơ quan chức năng phát hiện cũng khó phối hợp với nhà cung cấp dịch vụ để tra cứu thông tin.

Hai là, thường xoáy sâu vào một chủ đề hoặc một nhân vật cụ thể; có nội dung thông tin không đúng sự thật hoặc chỉ có một phần nhỏ là đúng để làm cho người đọc tin tưởng vào các nội dung thông tin sai còn lại... Các đối tượng thường lợi dụng các sự kiện chính trị của đất nước, được nhiều người dân quan tâm như Quốc hội thông qua Luật An ninh mạng, bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp… Khi các sự kiện trên chưa có thông tin chính thức từ phía của cơ quan chức năng thì các đối tượng tăng cường đăng tải các thông tin giả, thông tin hoàn toàn không có thật để kích động, làm cho người dân có thể hiểu sai vấn đề, bị lôi kéo thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật.

Ba là, hoạt động thời gian dài, có số lượng người theo dõi lớn, thường đăng tải nội dung nhắm đến nhiều tổ chức, người có chức, có quyền hoặc các vụ việc được nhiều người quan tâm; nội dung thông tin được đăng tải rất đa dạng, thuộc nhiều lĩnh vực, liên quan đến nhiều người, thường xuất hiện mang tính thời vụ, nội dung thông tin được đăng tải theo hướng trước hoặc trong thời gian diễn ra các dịp lễ, kỷ niệm lớn của đất nước. Trong thời gian này sẽ có nhiều người quan tâm, tiếp xúc với không gian mạng vì được nghỉ trong dịp lễ, thuận lợi cho việc kích động, lôi kéo xuống đường biểu tình, phản đối các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta.

Một số thủ đoạn đăng tải của các trang mạng xã hội: Một là, các đối tượng sử dụng “khoảng trống thông tin” khi các cơ quan chức năng của Đảng, Nhà nước, báo chí chính thống chưa có thông tin chính thức, các đối tượng sẽ lợi dụng khai thác đặc tính ưu việt của các trang mạng xã hội làm lan tỏa thông tin bịa đặt, bóp méo sự thật, xuyên tạc vấn đề, “đổi trắng thay đen”, lẫn lộn đúng sai, thật giả hoặc có một phần sự thật nhưng được đưa tin với dụng ý xấu, phân tích và định hướng dư luận bằng luận điệu thù địch, lồng ghép, xâu chuỗi các vụ việc với nhau, tấn công trực diện vào sự hiếu kỳ của công chúng để chống phá Đảng, Nhà nước ta.

Hai là, các đối tượng thường lợi dụng các trang mạng xã hội ở nước ngoài, có lưu trữ dữ liệu và hoạt động quản lý ở nước ngoài như Facebook, YouTube, Twitter… để lập các trang cá nhân hoặc các hội, nhóm có nội dung về dân chủ, nhân quyền; thậm chí có nhiều đối tượng lập tài khoản mạo danh các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước rồi liên tục đăng tải lên trang cá nhân, hội, nhóm những thông tin có nội dung xấu, độc, hoàn toàn trái ngược với sự chỉ đạo và sự giải quyết của chính quyền để kích động chống phá.

Ba là, các thế lực thù địch triệt để tận dụng các ứng dụng WhatsApp, FireChat và các biện pháp công nghệ được hỗ trợ từ nước ngoài để vượt tường lửa; Facebook là môi trường “lây lan” thông tin xấu, độc nhanh nhất, lợi dụng các thông tin tiêu cực, chống tiêu cực được báo chí trong nước đưa trên mạng để xuyên tạc nhằm bôi nhọ cá nhân, chống phá Nhà nước Việt Nam, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng… Thời gian gần đây, nhiều trang Facebook phản động đang giả dạng là những trang tin “tử tế” để tiếp cận người dùng, tăng số lượng người đăng ký theo dõi thường xuyên. Các trang này thường đưa những nội dung câu view nhằm đánh lạc hướng rồi đan cài những nội dung phục vụ ý đồ xấu của chúng. Chúng lợi dụng chức năng của mạng xã hội Facebook, YouTube (livestream) tường thuật trực tiếp sự việc trên các trang mạng xã hội để tán phát rộng rãi, số lượng người tiếp cận thông tin lớn cùng lúc, đồng thời, chuẩn bị lực lượng tiếp nhận video, biên tập ngay đề phòng bị lực lượng an ninh thu giữ máy quay trong lúc biểu tình.

Bốn là, các đối tượng còn sử dụng nhiều trang mạng xã hội để thực hiện hành vi đăng tải thông tin có nội dung xấu, độc chống phá Đảng, Nhà nước là tạo lập ra các trang mạng giả mạo của các cơ quan, tổ chức để thông tin, xuyên tạc, gây rối nội bộ... Người tiếp xúc với các trang mạng này do thiếu kỹ năng nên không biết đây là trang giả mạo, mà nghĩ đây là trang chính thức của tổ chức đảng, cơ quan nhà nước nên các trang đăng tải thông tin này được nhiều người đọc theo dõi và tin tưởng vào tính chính thống của nó, gây ra sự bất ổn chính trị, tạo dư luận xấu trong nhân dân, dẫn đến vi phạm pháp luật.

Năm là, các đối tượng phản động là nhà văn, nhà báo, ca sĩ… sử dụng thơ ca làm công cụ chống phá trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, thường chuyển hóa các bài viết có sẵn thành thể thơ hoặc bài hát phát trên các kênh âm nhạc trực tuyến; đặt máy chủ ở nước ngoài để vượt qua các cơ chế kiểm duyệt bài viết của Bộ Thông tin và Truyền thông./.

TMN-H4

ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH LÀ SỰ THỐNG NHẤT GIỮA TƯ TƯỞNG VÀ HÀNH ĐỘNG, GIỮA NÓI VÀ LÀM, HƯỚNG TỚI TIẾN BỘ XÃ HỘI

 

Hồ Chí Minh anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá, người chiến sĩ cộng sản lỗi lạc. Đồng thời  Người là tấm gương đạo đức sáng ngời cho chúng ta học tập, noi theo.

“Đạo đức” mà Hồ Chí Minh đề cập là đạo đức mới - đạo đức cách mạng, khác hẳn với đạo đức cũ: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời”. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng được biểu hiện ở các phẩm chất, như: lòng nhân ái, tính nhân văn cao cả, trung với nước, hiếu với dân, “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, tinh thần quốc tế trong sáng, v.v. Đây là lĩnh vực nhạy cảm của văn hóa và là cái gốc của sự phát triển.

Trong xã hội hiện đại, luật pháp ngày càng đầy đủ hơn, chặt chẽ hơn, nhưng ngoài luật pháp thì đạo đức giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc điều tiết các quan hệ xã hội. Hồ Chí Minh bao giờ cũng chú ý cả “đức trị” và “pháp trị”, xử lý mọi công việc vừa có lý, vừa có tình. Với mỗi con ngư­­ời cụ thể, Hồ Chí Minh coi trọng cả đức và tài, nhưng xét về thứ tự ư­u tiên thì Người vẫn cho đức là cơ bản hơn cả. Đạo đức đối với người cách mạng: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài ngư­­ời là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?”.5 Có thể nói, cuộc đời Hồ Chí Minh như “pho sách” lớn, biểu tượng sáng ngời về đạo đức, đã lan toả, thẩm thấu, trở thành giá trị văn hóa vĩnh hằng trong các thế hệ ngư­­ời Việt Nam và nhân dân tiến bộ toàn thế giới.

Tuy vậy, có không ít ng­ười cho rằng, trong kinh tế thị trường, chỉ cần có tài thì ở đâu cũng “sống” đ­ược, cũng đóng góp của cải cho xã hội được, cho nên làm ăn kinh tế không nhất thiết cần đạo đức. Đó cũng là một cách nghĩ, nhưng chắc chắn không phải là cách nghĩ của những người cộng sản, mà Hồ Chí Minh là tiêu biểu. Bởi nó đã tách văn hóa, đạo đức ra khỏi kinh tế và như­­ vậy, con đường làm ăn kinh tế rất dễ đi vào ngõ cụt. Bởi lẽ, mọi sự phát triển đều dựa trên nền văn hóa, đạo đức; nếu không có đạo đức làm cái căn bản thì làm ăn kinh tế chỉ có chụp giật mà thôi. Thế giới càng phát triển nhanh thì người ta càng báo động mạnh hơn về tính bền vững của sự phát triển, về sự mất đi cái tính văn hóa, về sự phai nhạt dần cốt cách của từng dân tộc, về sự tha hóa của chính bản thân con người. Từ lâu, các thế lực thù địch đã ra sức đặt điều, xuyên tạc,… về đạo đức Hồ Chí Minh, nhất là về đời tư của Người. Chúng lấy đó làm phương pháp hành động chống lại cách mạng Việt Nam. Lúc thì chúng dùng biện pháp, thủ thuật tinh vi, nói xa nói gần, nói vòng vo; lúc thì nói trực diện, trắng trợn, bốp chát, cay nghiệt, chửi rủa,… cốt là để lung lạc tinh thần nhiều người, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ. Nhưng thử hỏi và nhìn lại xem họ đã làm được những gì, lung lạc được những ai, ngoài nhóm người nhẹ dạ cả tin, lập trường hay bị dao động? Cả cuộc đời Hồ Chí Minh luôn phấn đấu vươn tới những giá trị thiện và đẹp, đó là những giá trị cao đẹp nhất mà bất kỳ ai có lương tâm trong sáng đều muốn đạt tới: hướng thiện, chân thành, nhân ái, đấu tranh vì sự tiến bộ, xả thân vì việc nghĩa, lo cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội - giai cấp và giải phóng con người. Hồ Chí Minh quan niệm rằng: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”. Đúng dịp kỷ niệm 39 năm Ngày thành lập Đảng (năm 1969) - năm cuối cuộc đời, Người viết bài: “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” để giáo dục cán bộ, đảng viên. Trước khi đi vào cõi vĩnh hằng, Người không có điều gì phải hối hận, nhưng chỉ tiếc nuối! Tưởng là tiếc nuối về vật chất, chưa được hưởng cái này cái nọ, nhưng cái mà Người tiếc nuối là không được phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa. Đó là sự tiếc nuối của một nhà văn hóa, đạo đức lỗi lạc; tiếc nuối của một bậc đại nhân, đại trí, đại dũng. Trong Di chúc, Người viết: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân. ĐOÀN VIÊN VÀ THANH NIÊN ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.

 Có thể nói, ở đâu, lúc nào Hồ Chí Minh cũng nói, viết và làm luôn thống nhất với nhau và đều liên quan đến đạo đức. Đó là nếp sống văn hóa thư­­ờng nhật của Hồ Chí Minh. Khi cho đạo đức là cái gốc của cây, cái ngọn nguồn của sông, cái căn bản của ng­­ười cách mạng, Hồ Chí Minh trở thành một trong những ng­ười tiên phong trong cuộc cách mạng về đạo đức; đồng thời là một chiến sĩ văn hóa trong hiện thực cuộc sống. Sự thật này hoàn toàn bác bỏ những lời lẽ xuyên tạc ác độc của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam, với Hồ Chí Minh. Hơn thế, họ càng xuyên tạc, phủ nhận thì văn hóa, đạo đức Hồ Chí Minh càng tỏa sáng.

Hồ Chí Minh không phải là ng­­ười chuyên viết sách lý luận về đạo đức, nhưng là ng­ười Việt Nam đầu tiên đề cập đạo đức công dân trong chế độ mới, đã gắn trách nhiệm với nghĩa vụ công dân. Khi đề cập đến cán bộ, đảng viên, Người đã tác động đúng vào khâu “trọng điểm”, “trung tâm” của xã hội. Vì khi Đảng cầm quyền, cán bộ, đảng viên là những người tiên phong trong các phong trào cách mạng, là cái gốc của mọi công việc,­­ là dây chuyền của bộ máy. Điều đó cắt nghĩa tại sao trong “hàm lượng” Hồ Chí Minh nói, viết về đạo đức thì Người dành nhiều nhất cho cán bộ, đảng viên. Trong đời sống xã hội, mỗi người luôn có vô vàn các mối quan hệ, nó đan xen, chồng chéo, phong phú và vô cùng phức tạp. Song, tất cả được Hồ Chí Minh quy vào ba mối quan hệ chủ yếu là: đối với người, đối với việc và đối với mình; trong đó, tự mình đối với bản thân mình là khó khăn nhất và Người là gương sáng tự mình làm chủ bản thân mình về văn hóa, đạo đức, từ thuở hàn vi cả đến khi là Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước. Bản chất đạo đức Hồ Chí Minh chính là chủ nghĩa nhân đạo truyền thống kết hợp và tiếp nối chủ nghĩa nhân đạo hiện đại tiến bộ, thể hiện đậm nét truyền thống nhân ái, tính chiến đấu không khoan như­­ợng với cái xấu, cái ác, hướng con người tới cái thiện, cái tốt, cái đúng. Đặc tr­ưng đạo đức Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa tư tưởng và hành động, giữa nói và làm, nhiều khi làm nhiều hơn nói, “học” đi đôi với “hành”, lý luận gắn liền với thực tiễn, v.v. Đó là những cặp chỉnh thể, nếu thiếu một vế sẽ là vô nghĩa.

Vẫn còn đó những cán bộ, đảng viên không làm tròn nhiệm vụ, thậm chí có một bộ phận không nhỏ đang suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; một số phạm phải những tiêu cực, như: tham nhũng, lãng phí, quan liêu, xa rời quần chúng,… nhưng không phải như các thế lực thù địch dựa vào đó, hoặc căn cứ vào cá nhân cán bộ, đảng viên hư hỏng để rồi bôi xấu Đảng ta. Vì theo quan điểm của Hồ Chí Minh thì Đảng cũng từ trong xã hội mà ra, trong Đảng cũng bị lây ngấm những cái xấu từ bên ngoài vào, nhưng Người tin Đảng ta - Đảng của đạo đức và văn minh - sẽ giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên làm tròn nhiệm vụ của mình.

VTK-H1

CẢNH GIÁC VỚI SUY DIỄN, XUYÊN TẠC

 

Trên chuyến xe về quê, ông Thanh bất đắc dĩ phải nghe cuộc tranh luận của hai vị khách ở hàng ghế phía trước. Người trung tuổi nói với cậu thanh niên:

- Đấy chú xem, anh nói cấm có sai, huyện đã có quyết định kỷ luật rồi. Tại có đối thủ muốn giành cái ghế chủ tịch xã của ông ấy.

- Ông ấy sai phạm rõ ràng thì việc bị kỷ luật là đương nhiên mà anh.

Giọng người trung niên hơi cáu:

- Lỗi của ông ta đáng gì, thậm chí người khác còn tội to hơn. Đây là thanh trừng, đấu đá nhau chú hiểu không? Ông ta bị chơi xấu, tạo cớ cho lãnh đạo huyện đá bay ghế chủ tịch xã để đưa người thân vào. Chú tí tuổi thì làm sao hiểu chuyện đấu đá, hạ bệ để tạo thế cho phe cánh.  

- Em xin lỗi, nhưng chính anh mới là người không hiểu chuyện. Anh có biết quy trình kỷ luật một cán bộ, đảng viên phải chặt chẽ thế nào không? Em làm ở cơ quan nhà nước nên em hiểu rất rõ. Việc kỷ luật cán bộ, đảng viên phải trên cơ sở kết quả thanh tra, kiểm tra với đầy đủ bằng chứng vi phạm, bảo đảm xử lý đúng người, đúng tội chứ không thể thích kỷ luật ai cũng được. Ở đây chẳng có phe phái đấu đá hay thanh trừng gì cả!

- Chú đúng là "trẻ người non dạ", chẳng hiểu gì! Anh nghe mấy đứa bạn ở quê đều bảo thế. Mà nói cho chú biết, anh đọc trên mạng, người ta cho rằng việc kỷ luật bây giờ chủ yếu là do phe cánh đấu đá để hạ bệ nhau thôi. Chú còn trẻ trâu lắm!

Thấy tình hình có vẻ căng, ông Thanh liền "giải nguy" cho cậu thanh niên:

- Tôi thấy anh bạn trẻ này nói đúng đấy chú ạ. Chính chú mới là người nói liều, không có căn cứ. Bản thân chú đang bị những người không hiểu chuyện hoặc họ rất hiểu nhưng cố tình suy diễn, xuyên tạc với mục đích xấu. Lâu nay, ở trên các trang mạng phản động, từ việc cán bộ có vi phạm bị xử lý kỷ luật, kẻ xấu đã suy diễn, tuyên truyền nhảm là phe phái đấu đá, thanh trừng lẫn nhau nhằm bôi xấu chế độ ta, gây mâu thuẫn, mất đoàn kết trong tổ chức đảng, chính quyền và nguy hiểm nhất là làm cho nhân dân mất niềm tin vào Đảng, Nhà nước. Những ai nhẹ dạ cả tin, suy nghĩ thiếu chín chắn thì dễ bị "xỏ mũi", hiểu sai sự việc theo ý đồ của chúng, tức là mắc chiêu xuyên tạc, kích động này.  

Nghe những lời phân tích của ông Thanh, người trung niên chắc đã hiểu ra nên im lặng./.

HĐQ-H4

 

 

 

                            

BÀN VỀ BIỂU HIỆN CỦA CHỦ NGHĨA DÂN TUÝ TRONG XÃ HỘI HIỆN NAY

 

Xét trên quan điểm, lập trường của những nhà lý luận Mácxit, thì chủ nghĩa dân túy là hết sức nguy hiểm, là mầm móng đe dọa sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa, nếu như những người đứng đầu Đảng Mácxit không nắm được thực chất cũng như tác động của nó, không có biện pháp giải quyết một cách hài hòa, hợp lý, khoa học đối với chủ nghĩa dân túy.

Hiện nay, chủ nghĩa dân túy đang có nguy cơ ảnh hưởng sâu và tiêu cực tới Việt Nam, mặc dù ở Việt Nam chủ nghĩa dân túy không có cơ sở kinh tế, chính trị - xã hội để tồn tại dưới dạng “chủ nghĩa”, mà mới chỉ tồn tại với tính cách là quan điểm, tư tưởng, không thành hệ thống lý luận và chỉ biểu hiện ở phát ngôn, hành động của một số người. Những biểu hiện của chủ nghĩa dân túy ở Việt Nam dù chưa điển hình và chưa trở thành trào lưu chi phối đời sống chính trị - xã hội, nhưng đã xuất hiện nguy cơ tạo ra những hậu quả tiêu cực. Mức độ và phạm vi ảnh hưởng tiêu cực của các quan điểm, tư tưởng và hành động của chủ nghĩa dân túy đang có nguy cơ tăng lên trong đời sống xã hội, có khả năng lan rộng và thấm sâu - trở thành mảnh đất màu mỡ cho những kẻ cơ hội, mị dân lợi dụng - nên rất cần nhận diện và đấu tranh phòng ngừa, xử lý kịp thời, có hiệu quả.

Thứ nhất, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phai nhạt, xa rời mục tiêu, lý tưởng của Đảng, tôn thờ và chạy theo những lợi ích trước mắt, thực dụng của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân - những biểu hiện manh nha của chủ nghĩa dân túy.

Thứ hai, những phát ngôn và hành động của những phần tử cơ hội chính trị, nhất là những phát ngôn, những bài viết mang tính mị dân trên các phương tiện truyền thông đại chúng, các diễn đàn, các trang mạng xã hội,... thể hiện dưới dạng những thủ đoạn và nội dung khác nhau.

Thứ ba, xuất hiện những người cơ hội dưới dạng “theo đuôi quần chúng”, “chiều theo” ý kiến, nguyện vọng của một nhóm nhất định nhân danh “quần chúng” mà bỏ qua các nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; “lấy lòng quần chúng” để giành chức quyền, mưu lợi ích riêng; bám giữ “tư duy tiểu nông”, “tiểu tư sản” trong một số trí thức và người dân, gây bất mãn với Đảng, Nhà nước và chế độ...

Thứ tư, xuất hiện một số cán bộ, đảng viên có quan điểm, lời nói, hành động không đúng với chủ trương, đường lối, nguyên tắc của Đảng, không đúng quy định pháp lý, thiếu tính khả thi, vượt quá giới hạn thẩm quyền; hứa suông, nói không đi đôi với làm, nói nhiều, làm ít, nói một đường, làm một nẻo; cơ hội, lợi dụng, tranh thủ phiếu bầu của những cán bộ, đảng viên thiếu gương mẫu, thoái hóa, biến chất; “tư duy nhiệm kỳ”, đề cao lợi ích trước mắt, cục bộ, địa phương...

Để phòng ngừa và ngăn chặn những biểu hiện của chủ nghĩa dân túy ở Việt Nam hiện nay, cần tạo sự chuyển biến trong nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về những tác hại của chủ nghĩa dân túy, đồng thời chỉ ra những biểu hiện cụ thể của nó. Theo đó, cần:

Thứ nhất, đẩy mạnh việc nghiên cứu làm rõ khái niệm, nội dung, hình thức biểu hiện, tác hại và nguyên nhân phát sinh, phát triển của chủ nghĩa dân túy; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục để cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận biết được những nguy cơ, biểu hiện và tác hại của chủ nghĩa dân túy; kịp thời nhận diện và cảnh giác với những biểu hiện cụ thể của chủ nghĩa dân túy ở Việt Nam; định hướng thông tin đúng đắn trên báo chí, tạo hiệu ứng truyền thông tích cực, liên tục nhằm tạo sức mạnh tổng hợp trong đấu tranh chống các quan điểm sai trái và những biểu hiện của chủ nghĩa dân túy.

Thứ hai, đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát triển đất nước, phòng, chống có hiệu quả tình trạng tham nhũng, tiêu cực; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh, toàn tâm, toàn lực phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước, thực hiện đúng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm”, “việc gì có hại cho dân, ta phải hết sức tránh”, để củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ.

Thứ ba, kiên định phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, giữ vững độc lập, chủ quyền trong quá trình hội nhập quốc tế; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với báo chí, truyền thông, nâng cao khả năng định hướng dư luận xã hội của báo chí, truyền thông.

Thứ tư, phát hiện, xử lý và khắc phục kịp thời những biểu hiện và hậu quả của chủ nghĩa dân túy ở Việt Nam./.

HVD-H4

Thứ Ba, 4 tháng 10, 2022

TIẾP TỤC VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ, VỊ THẾ CỦA PHỤ NỮ TRONG GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG HIỆN NAY

 

Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ là hệ thống các nội dung thể hiện nhãn quan chính trị, tầm nhìn triết học nhân văn và là một cống hiến to lớn của Người đối với sự phát triển của phụ nữ Việt Nam. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ trong tình hình hiện nay là vấn đề có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn, nhằm phát huy sức mạnh toàn dân tộc thực hiện thành công sự nghiệp đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước.

Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định đúng đắn vai trò, vị trí của phụ nữ; coi trọng công tác vận động phụ nữ, sự nghiệp giải phóng phụ nữ; quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, phát huy vai trò của phụ nữ trên các lĩnh vực.

Ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, để quy tụ, phát huy sức mạnh của mọi tầng lớp phụ nữ Việt Nam, Đảng đã chỉ đạo thành lập các tổ chức phụ nữ như: Hội Phụ nữ Phản đế Đông Dương (năm 1930), Hội Phụ nữ Dân chủ (năm 1936), Đoàn Phụ nữ Cứu quốc (giai đoạn 1941-1945) và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (20/10/1946) nhằm xây dựng hạt nhân đoàn kết, tổ chức phụ nữ trong các phong trào cách mạng, chăm lo đời sống và phấn đấu thực hiện bình đẳng giới, vì sự nghiệp giải phóng phụ nữ...

Đại thắng Mùa Xuân năm 1975 mở ra kỷ nguyên mới, cả nước độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội. Tháng 6/1976, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Nam Việt Nam đã hợp nhất, lấy ngày 20/10/1930 là ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Việc thống nhất tổ chức Hội đã tạo nên một sức mạnh mới, mở đường cho phong trào phụ nữ nước ta phát triển lên một trình độ cao hơn. Hàng loạt cuộc vận động, phong trào thi đua mới được phát động và triển khai rộng khắp, trở thành động lực thúc đẩy các tầng lớp phụ nữ tích cực tham gia, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Thông qua việc thực hiện các phong trào thi đua, vị trí, vai trò của phụ nữ Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới được nâng cao, tạo điều kiện để phụ nữ Việt Nam đóng góp nhiều hơn vào sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước.

          Cùng với đó, công tác phụ nữ, trong đó có công tác cán bộ nữ cũng được đề cao trong sự nghiệp giải phóng phụ nữ, thực hiện nam, nữ bình quyền. Ngày 7/6/1984, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 44-CT/TƯ, “Về một số vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ nữ”, thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng đối với đội ngũ cán bộ nữ. Chỉ thị số 44-CT/TƯ góp phần làm thay đổi mạnh mẽ quan điểm, nhận thức đối với vấn đề cán bộ nữ; tăng thêm đội ngũ cán bộ nữ tham gia cấp ủy viên, ủy ban nhân dân, công tác lãnh đạo quản lý ở các cấp; đồng thời, tích cực đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ; đẩy mạnh công tác phát triển Đảng trong phụ nữ. Nhờ vậy, số cán bộ nữ tham gia công tác Đảng, chính quyền trong thời kỳ này đã tăng đáng kể. Tỷ lệ nữ giới tham gia Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI là 8,62%, các Đảng bộ trực thuộc Trung ương là 11,4%. Nhiệm kỳ 2015-2020, lần đầu tiên có 3 đồng chí nữ là Ủy viên Bộ Chính trị (đạt tỷ lệ 15,78%). Việt Nam nằm trong nhóm 1/3 các nước đứng đầu về tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội và tỷ lệ phụ nữ tham gia lao động. Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XIII đạt 24,2%, tăng thêm 3,11% vào khóa tiếp theo, đạt tỷ lệ 27,31%, cao hơn tỷ lệ chung của thế giới.

          Có thể khẳng định, hơn 90 qua, vai trò của phụ nữ Việt Nam và công tác phụ nữ luôn được Đảng ghi nhận và đánh giá cao. Đảng luôn nhấn mạnh phụ nữ là một lực lượng quan trọng của công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế-xã hội; đồng thời, coi sự nghiệp giải phóng phụ nữ và công tác phụ nữ là trách nhiệm của Đảng và các đoàn thể nhân dân, của toàn xã hội và từng gia đình. Mục tiêu giải phóng phụ nữ là thiết thực cải thiện đời sống vật chất và tinh thần, nâng cao vị trí xã hội của phụ nữ, thực hiện nam, nữ bình đẳng, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh và trưởng thành, làm tốt nhiệm vụ tập hợp đông đảo mọi tầng lớp phụ nữ Việt Nam; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ; phấn đấu vì sự phát triển của phụ nữ và bình đẳng giới; trở thành cầu nối vững chắc giữa Đảng với mọi tầng lớp phụ nữ; tích cực tham gia các hoạt động nhằm nâng cao vai trò, vị thế của phụ nữ Việt Nam trong hệ thống chính trị, trong mọi mặt đời sống xã hội và trên trường quốc tế.

Có thể tự hào rằng, không chỉ giữ vị trí quan trọng trong gia đình, phụ nữ Việt Nam còn có vai trò vô cùng quan trọng trong đấu tranh cách mạng, trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, xứng đáng với tám chữ vàng mà chủ tịch Hồ Chí Minh dành tặng: “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”./.

NCB-H4

Chủ Nhật, 2 tháng 10, 2022

TRUNG TƯỚNG NGUYỄN QUỐC THƯỚC MỘT ĐỜI TRỌN NGHĨA - VẸN TÌNH

 

Trong các cuộc trường chinh của dân tộc, lớp lớp thế hệ cha ông lên đường ra mặt trận, bỏ lại sau lưng mẹ già, em thơ, vợ trẻ ...họ đã chiến đấu hy sinh vì Tổ quốc, họ chiến đấu và mất đi một phần thân thể, độc lập - tự do hôm nay được viết lên từ máu xương của bao người đã ngã xuống. Người lính đã phải hy sinh tình cảm gia đình, có sự chia ly vĩnh viễn, có sự cách xa biền biệt, sự tao ngộ trùng phùng chỉ tính bằng ngày, bằng giờ. Điển hình về sự hy sinh ấy phải kể đến gia đình Trung tướng Nguyễn Quốc Thước.

Sau những ngày tháng ra đi biền biệt, ngày Trung tướng từ chiến trận trở về, đứa con đầu ông đã 11 tuổi, đứa sau đã lên 10, thấy người lạ liền bỏ trốn. Trung tướng xót xa: “Phải tìm mãi chúng mới chịu về, vợ tôi phải giải thích " Ba con đấy" chúng mới nguôi nguôi. Sau 10 năm, đó là giây phút hạnh phúc nhất, lúc ấy tôi mới cảm nhận được mình thực sự là “Ba” giữa tiếng nói cười và những đôi mắt trong veo của trẻ nhỏ”.

Trung tướng Nguyễn Quốc Thước có 10 năm ăn Tết trên chiến trường miền Nam, Hòa bình lập lại, Tết của ông vẫn là những trận chiến ở chiến trường C, ở biên giới phía Bắc. Gần 10 năm sau ngày thống nhất, ông mới có cái Tết sum vầy đầu tiên bên gia đình. Những giây phút hiếm hoi được gặp con, ông ôm lấy đầu con, đặt vào đó một nụ hôn yêu thương rồi dặn dò như thể bù đắp cho quãng đời thiếu vắng cha.

Vợ ông là bà Phan Thị Thủy, thua ông đến 10 tuổi, bà là điển hình của sự chịu đựng và thủy chung, là hậu phương vững chắc để chồng yên tâm ra trận. Ông cũng như bao người đi làm cách mạng và như lời của Chủ Tịch Hồ Chí Minh "Chúng ta, ai cũng đều muốn có một gia đình ấm cúng. Người cách mạng là người giàu tình cảm, mà chính vì giàu tình cảm thì mới đi làm cách mạng, càng làm cách mạng lại càng quý trọng cuộc sống gia đình, chẳng qua vì chưa có điều kiện thuận lợi nên chưa thực hiện được, đành phải chịu đựng mà thôi''.

Ai cũng khát khao có một mái ấm gia đình, sống bình yên bên gia đình. Trung tướng Thước cũng vậy ông cũng như bao người đàn ông Việt Nam chân chính khác, ông cũng khát khao một cuộc sống bình yên hạnh phúc bên gia đình, nhưng vì nghĩa lớn ông gác lại lợi ích riêng của bản thân cống hiến cuộc đời mình cho sự nghiệp cứu nước vĩ đại của dân tộc.

Những người lính trong thời chiến kể cả là trong thời bình, họ luôn phải hy sinh tình cảm gia đình, chịu nhiều thiệt thòi. Ông là một trong những tấm gương trọn cuộc đời vì nước vì dân. Hiện nay ông đã bước sang tuổi 96, ông có nhiều tiếng nói đóng góp xây dựng củng cố Đảng, ông từng là Ủy viên trung ương Đảng, Đại biểu Quốc hội 3 khóa, Tư lệnh quân khu. Ông là người ngay thẳng, bộc trực đến nỗi thành giai thoại chốn nghị trường.

Ông đã từng nói thẳng với Chủ tịch hội đồng bộ trưởng Đỗ Mười rằng, tôi làm Tư lệnh quân khu, '' Sư trưởng sai tôi cách chức, không thì hãy cách chức tôi. Anh làm Chủ tịch hội đồng bộ trưởng, Bộ trưởng sai anh phải xử lý,, và ông đã dám viết thư kiến nghị gặp Ban bí thư để góp ý về vấn đề chỉnh đốn Đảng. Dám nói với Thường trực Ban Bí thư là tôi quê Bác Hồ, tạm trú Hà Nội, tôi góp ý cho Đảng, Nhà nước mà không tiếp thu thì tôi sẽ đăng lên facebook.

Ông cũng là một người hết lòng vì gia đình, ông luôn nói "suốt đời tôi mắc nợ vợ tôi. Mấy chục năm chinh chiến, tôi đi biền biệt, nhà cửa, con cái do vợ tôi vun vén, chăm lo cả''. Sau khi nghỉ hưu ông đã từ bỏ mọi công việc xã hội để về chăm vợ nằm liệt trên giường bệnh 14 năm cho đến khi bà mất, ông muốn bù đắp cho bà, chăm sóc bà. Hình ảnh người vợ thân yêu ông luôn bên ông, trên màn hình điện thoại ông để hình của bà và ông luôn nghĩ có ngày vợ chồng ông lại trùng phùng bên nhau.

Ông là một vị tướng tài năng, can trường, ngay thẳng, bộc trực, hết lòng vì nước vì dân, một người chồng chung thuỷ đầy trách nhiệm, một vị tướng, một vị Tư lệnh hết lòng thương yêu chia sẻ khó khăn với những người lính của mình . Ông là người chí công vô tư, là vị tướng tài của QĐND Việt Nam, vị tướng của lòng dân.

P/s: Ban Thi đua - Khen thưởng TP Hà Nội vừa công bố danh sách tóm tắt 10 cá nhân được đề nghị xét tặng danh hiệu "Công dân Thủ đô ưu tú" năm 2022. Trong danh sách 10 cá nhân được đề nghị xét tặng danh hiệu "Công dân Thủ đô ưu tú" có Trung tướng, Anh hùng lực lượng vũ trang Nguyễn Quốc Thước (SN 1926).

ĐVQ-BS

Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2022

BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI THEO NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG

 

Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng ta luôn coi trọng vị trí, vai trò của văn hóa, khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là sức mạnh nội sinh cho sự phát triển. Hiện nay, trước những thách thức đặt ra của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, càng phải chú trọng bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc vì sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước.

 Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ dự khai mạc Tuần “Đại đoàn kết các dân tộc - Di sản Văn hóa Việt Nam” năm 2021 _Ảnh: TTXVN

Trong quá trình xây dựng và phát triển văn hóa, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa và  hội nhập quốc tế cùng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ trên quy mô toàn cầu hiện nay, yêu cầu bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa được đặt ra đối với bất kỳ dân tộc hay quốc gia nào trên thế giới. Trong các nghiên cứu khoa học về văn hóa, tác giả A.A. Ra-du-ghin (nhà nghiên cứu văn hóa của Nga) đã khẳng định, xu hướng hiện đại của việc suy ngẫm lại vai trò và ý nghĩa của di sản văn hóa là ở chỗ, không chỉ cố gắng giữ gìn di sản văn hóa đó ở dạng ban đầu, mà còn phải nỗ lực gắn di sản đó vào nền móng của đời sống xã hội. Tức là bản thân quá trình lịch sử của văn hóa - nghệ thuật xuất hiện ở đây không chỉ như quá trình bảo toàn quá khứ và tích lũy các giá trị văn hóa, mà còn như quá trình phát triển cái mới trong cái cũ. Như vậy, mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển đã được xác định có sự kế thừa và mang tính khách quan với yếu tố cốt lõi là các giá trị văn hóa.

Giá trị văn hóa còn được gọi là “vốn văn hóa” với các đặc điểm tiêu biểu là: Giá trị văn hóa có khả năng bổ sung làm gia tăng giá trị kinh tế của một sản phẩm văn hóa; Giá trị văn hóa góp phần xây dựng nhân cách, điều chỉnh hành vi cá nhân làm cho nguồn nhân lực xã hội có chất lượng trí tuệ cao hơni; Vốn văn hóa là một bộ phận cấu thành môi trường xã hội lành mạnh ; Một sản phẩm có hàm lượng văn hóa, trí tuệ càng cao thì giá trị hàng hóa/giá thương phẩm càng tăng.

Các di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa vật thể (lâu đài, thanh quách, đình, chùa, miếu, phủ, di sản thiên nhiên, bảo vật, cổ vật...) và di sản văn hóa phi vật thể (nghệ thuật, văn chương, tri thức, kỹ năng, phong tục, tập quán, tin ngưỡng...), mang những giá trị văn hóa - vốn văn hóa đặc sắc, tiêu biểu cho lịch sử xây dựng và phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Tiếp cận từ góc độ kinh tế học, các di sản văn hóa không chỉ mang giá trị văn hóa, mà còn mang giá trị kinh tế, có khả năng tạo ra lợi nhuận và sinh kế cho cộng đồng. Do đó, bảo tồn một cách bền vững và hiệu quả góp phần gia tăng giá trị của di sản văn hóa.

Trong những năm qua, các giá trị văn hóa ở nước ta, nhất là các giá trị văn hóa truyền thống, luôn được chú trọng bảo tồn và phát huy. Dù trải qua 2 năm bị ảnh hưởng nặng nề từ đại dịch COVID-19 trên toàn cầu, công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa vẫn đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận. Trong 6 tháng đầu năm 2021, cả nước có 23 di tích cấp quốc gia được xếp hạng, ghi danh 31 di sản văn hóa phi vật thể vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Ngành văn hóa đã hoàn thiện hồ sơ gửi Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đề cử di sản Vịnh Hạ Long - Quần đảo Cát Bà (tỉnh Quảng Ninh và thành phố Hải Phòng) ghi danh vào Danh mục di sản thế giới; đưa Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử (các tỉnh Quảng Ninh, Bắc Giang và Hải Dương) vào danh sách dự kiến lập hồ sơ di sản thế giới. Công tác bảo tồn, giữ gìn và phát huy các phong tục, tập quán tốt đẹp của đồng bào dân tộc thiểu số được đẩy mạnh thông qua việc triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030.

Công tác xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện được thúc đẩy với việc chú trọng phẩm chất đạo đức, lối sống tốt đẹp và được triển khai với các chuẩn mực cụ thể. Công tác gia đình được triển khai đồng bộ từ Trung ương đến địa phương; công tác phòng, chống bạo lực gia đình được đẩy mạnh; công tác tuyên truyền, giáo dục đạo đức gia đình được tăng cường. Các hoạt động hưởng ứng Ngày Quốc tế Hạnh phúc 20-3, Ngày Gia đình Việt Nam 28-6 và Tháng hành động quốc gia về phòng, chống bạo lực gia đình năm 2021 với chủ đề “Gia đình bình an - Xã hội hạnh phúc”, Chương trình nghệ thuật kỷ niệm 20 năm Ngày Gia đình Việt Nam được tổ chức thành công.

Các chương trình nghệ thuật phục vụ nhiệm vụ chính trị, các sự kiện văn hóa và biểu diễn có thu được đánh giá cao. Xây dựng thương hiệu quốc gia của 5 ngành: Du lịch văn hóa; điện ảnh; mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm; nghệ thuật biểu diễn; quảng cáo.

Như vậy, đánh giá một cách khách quan thì những kết quả trên đã thể hiện sự chủ động thích ứng với những khó khăn của ngành văn hóa và toàn xã hội trong giai đoạn hiện nay. Các giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam có cơ hội vượt qua thách thức, ngày càng hoàn thiện, chắt lọc các giá trị căn cốt làm nên bản sắc Việt Nam. Qua đó, góp phần rèn giũa bản lĩnh, trí tuệ, tâm hồn con người Việt Nam trong gian khó với tinh thần chung lưng đấu cật, “lá lành đùm lá rách”, “lá rách ít đùm lá rách nhiều”, tương thân, tương ái... Đó cũng chính là truyền thống quý báu, là những trầm tích văn hóa luôn không ngừng được bồi đắp, trao truyền, tiếp nối và thực hành trong đời sống xã hội qua các thế hệ của người dân Việt Nam.

Trước những yêu cầu của thời kỳ mới, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định quan điểm chỉ đạo “phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần”, “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực”. “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước... xây dựng môi trường văn hóa, đạo đức xã hội lành mạnh, văn minh... Không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân” và “Tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn: ... giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”.

Bên cạnh đó, các giá trị văn hóa truyền thống phải được bảo tồn và tích hợp với giá trị của đời sống văn hóa mới, trên cơ sở phương châm làm cho con người ngày càng tốt đẹp hơn, loại bỏ những yếu tố xấu và yếu tố lạc hậu. “Nền văn hóa mới của Việt Nam phải lấy hạnh phúc của nhân dân, của dân tộc làm cơ sở, phải học lấy những điều tốt đẹp của văn hóa nước ngoài, tạo ra nền văn hóa Việt Nam, sao cho văn hóa mới phải sửa đổi cho được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ, phải làm sao cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập”. Văn hóa không chỉ là tiếp thu tinh hoa quá khứ, xử lý tốt mối quan hệ trong hiện tại, mà còn phải luôn hướng tới nền văn hóa đích thực vì sự phát triển bền vững, vì hạnh phúc của con người./.

LXT-H4

Thứ Tư, 28 tháng 9, 2022

KIÊN QUYẾT, KIÊN TRÌ ĐẤU TRANH BẢO VỆ ĐỘC LẬP, CHỦ QUYỀN, THỐNG NHẤT VÀ TOÀN VẸN LÃNH THỔ CỦA TỔ QUỐC

 

Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc đã được Đảng ta khẳng định trong Văn kiện Đại hội XII, Đại hội XIII. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng một lần nữa đã khẳng định và luận giải rõ hơn từ lịch sử, bối cảnh tình hình và nội dung của quan điểm.

Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” đã được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng. Bài viết có kết cấu, cách tiếp cận nội dung rất cơ bản, hệ thống và khoa học, nội dung được đề cập tới các lĩnh vực như: Phát triển kinh tế thị trường; xây dựng nền văn hóa; thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa…

Đặc biệt bài viết khẳng định: “Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”, “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Điều này đã phản ánh đúng lý luận, thực tiễn và cả những vấn đề đặt ra cần phải tiếp tục giải quyết đối với cách mạng Việt Nam.

Nội hàm bài viết đã thể hiện rõ quan điểm: Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền thống nhât và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc đã được Đảng ta khẳng định trong Văn kiện Đại hội XII, Đại hội XIII. Tuy nhiên, trong bài viết của Tổng Bí thư một lần nữa đã khẳng định và luận giải rõ hơn từ lịch sử, bối cảnh tình hình và nội dung của quan điểm.

Thứ nhất, quan điểm kiên quyết, kiên trì trong bài viết là sự tiếp nối truyền thống của cha ông ta.

Thứ hai, kiên quyết, kiên trì bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh “tình hình khu vực và quốc tế diễn biến phức tạp, có nhiều bất lợi cho ta”

Thứ ba, kiên quyết, kiên trì bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, trước hết là kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

Thứ tư, kiên quyết, kiên trì bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.

Thứ năm, kiên quyết, kiên trì bảo vệ Tổ quốc trên cơ sở phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc

Trước đây, Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất, ngày 24-11-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Lấy văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Có nghĩa là, dân tộc Việt Nam muốn giải phóng, xây dựng và phát triển đất nước, nhất định phải phát triển văn hóa. Ngày nay, bài viết tiếp nối và khẳng định, văn hóa là toàn bộ giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo, phát minh ra, theo đó lẽ tất nhiên, văn hóa xuất phát từ con người và phải đem văn hóa để giải phóng con người, trước hết là giải phóng con người thoát khỏi áp bức, bóc lột, bất công và được phát triển toàn diện. Nội dung cốt lõi trong bài viết thể hiện: Văn hóa là nền tảng cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, mục tiêu của sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Muốn có chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa, phải giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Văn hóa là một mặt trận, mỗi văn nghệ sĩ là một chiến sĩ trên mặt trận ấy. Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân, xây dựng nền văn hóa Việt Nam “dân tộc - khoa học - đại chúng”…

Bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có giá trị lý luận, thực tiễn sâu sắc, tiếp tục chỉ đạo nhiệm vụ quán triệt và triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng trong đời sống. Những nội dung cơ bản của bài viết cần tiếp tục được nghiên cứu, luận giải, làm cơ sở cho quá trình quán triệt, tổ chức thực hiện. Đường lối, quan điểm của Đảng chỉ trở thành lực lượng vật chất khi được thâm nhập, quán triệt sâu sắc và tổ chức trong hoạt động thực tiễn ở mỗi tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và Nhân dân.

Chúng ta tin tưởng rằng, với trí tuệ, bản lĩnh chính trị vững vàng, đường lối lãnh đạo công cuộc đổi mới đúng đắn, sáng tạo của Đảng, khát vọng phát triển đất nước Việt Nam phồn vinh, hùng cường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của Nhân dân sẽ trở thành hiện thực./.

PVĐ-H4

Thứ Năm, 22 tháng 9, 2022

“VIÊN ĐẠN BỌC ĐƯỜNG” VÀ TÁC HẠI CỦA NÓ

 

Theo từ điển tiếng Việt, “Viên đạn bọc đường” chỉ sự cám dỗ vật chất dễ làm cho sa ngã, làm điều xấu, lợi cho người cám dỗ. Khi nói chuyện với các lực lượng trước khi vào tiếp quản Thủ đô Hà Nội (1954), nhiều người thắc mắc không biết từ chiến khu về xuôi thì lương bổng, công tác sau này ra sao, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bổ sung một điều chưa ai nêu ra: "Khi về xuôi thì đạo đức và nhân cách của mình phải thế nào?" Rồi Người căn dặn: "Bom đạn của địch không nguy hiểm bằng “đạn bọc đường” vì nó làm hại mình mà mình không trông thấy"…

Soi chiếu với những gì diễn ra gần đây, đặc biệt là khi Đảng đẩy mạnh yêu cầu “tự soi”, “tự sửa” thông qua công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lời Bác dặn năm xưa vẫn vẹn nguyên giá trị. Bởi chỉ trong 5 năm trở lại đây, “viên đạn bọc đường” thông qua các hình thức như: Hoa hồng, chiết khấu, hối lộ, phí bôi trơn, cổ phiếu ưu đãi… đã là “phép thử” và làm nhiều cán bộ “gục ngã” do không đủ bản lĩnh vượt qua ma lực của đồng tiền, của vòng danh lợi.

Do vậy, điều quan trọng nhất lúc này là mỗi cán bộ, đảng viên phải tự tu dưỡng đạo đức, tạo sức đề kháng, ngăn chặn, vô hiệu hóa những “viên đạn bọc đường” trong chính công việc hằng ngày, bằng cách tuân thủ nghiêm quy trình công tác, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước có liên quan. Không chỉ bản thân làm tốt mà cần tuyên truyền, giáo dục cấp dưới, đồng nghiệp, đặc biệt là người thân trong gia đình làm theo để họ không trở thành “gót chân Asin”…

Cùng với tăng cường, siết chặt cơ chế kiểm soát quyền lực của Nhà nước để cán bộ các cấp “không thể tham nhũng”, “không dám tham nhũng”, mỗi cơ quan, đơn vị cần chủ động rà soát quy định, quy chế nội bộ để cán bộ, đảng viên khi nắm quyền trong tay phải nắm rõ nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, không dám lạm quyền, lộng quyền, không để bị ngã gục trước cám dỗ. Những vị trí công tác “nhạy cảm” liên quan đến phê duyệt dự án, thuế, hải quan, quản lý tài sản công, quản lý tài chính… phải thường xuyên được sàng lọc, luân chuyển, tránh tình trạng cát cứ dẫn đến lạm dụng quyền, sai phạm.

NXC-H1

Thứ Hai, 19 tháng 9, 2022

LÒNG TỰ TÔN DÂN TỘC CỦA CHA THOẠI ĐANG Ở ĐÂU?

 

Tư tưởng sính ngoại của cha Đinh Hữu Thoại khiến dư luận cảm thấy nực cười. Mới đây, sau khi trang báo điện tử VOA đưa tin về việc: “Đông đảo thần dân Anh không chen chân được vào trung tâm để tận mắt chứng kiến đoàn xe tang đưa linh cữu của Nữ hoàng tới Cung điện Westminster hôm 14/9 đổ xô qua Công viên Hyde Park để theo dõi qua các màn ảnh lớn ngoài trời...”, cha Đinh Hữu Thoại buông lơi một câu cảm thán “Nể họ thật !”.

Không rõ đây là tình cảm của cha Thoại thể hiện sự quan tâm, chia sẻ với cộng đồng người Anh sau khi Nữ hoàng của họ qua đời hay chẳng qua cha đang lợi dụng sự việc để đánh bóng tên tuổi. Đặc biệt là câu khen ngợi có phần nịnh nọt, có cánh mà cha Thoại dành cho họ.

Trong khi đó, ở Việt Nam chúng ta cũng có nhiều hình ảnh đẹp về tình cảm đẹp của người dân dành cho những vị lãnh tụ, những người vĩ nhân của đất nước, nhưng chưa khi nào thấy cha Thoại thể hiện sự xúc động tốt cùng để thốt lên một câu xanh rờn như vậy.

Mùa thu tháng 10 tại Hà Nội cách đây 9 năm, chúng ta nghẹn ngào xúc động chứng kiến hàng triệu người dân Việt Nam đã bày tỏ tấm lòng thành kính thương tiếc Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Dòng người hàng ngày nối dài xếp hàng lặng lẽ chờ đợi để được vào viếng Đại tướng tại nhà riêng. Và càng xúc động hơn nữa, khi chứng kiến những dòng người, đủ thành phần từ người già, đến trẻ nhỏ, các cựu chiến binh... xếp hàng dài từ Nhà tang lễ số 5 Trần Thánh Tông đến Sân bay Nội Bài được kịp chào biệt Đại tướng của nhân dân lần cuối cùng.

Với những hình ảnh phản ánh về tình cảm thiêng liêng của người dân Việt Nam như vậy, với tư cách là một người con dân đất Việt, cha có cảm thấy tự hào hay không nhỉ?

Nguyễn Đắc Việt – H2