CHÀO MỪNG ĐẾN VỚI BLOG GIỮ TRỌN LỜI THỀ

Thứ Tư, 14 tháng 12, 2016

Tiểu luận: Quan điểm của phép biện chứng về sự phát triển, vận dụng phân tích phát triển bền vững về kinh tế nước ta hiện nay.

MỞ ĐẦU
1. Cơ sở lựa chọn đề tài
Chủ nghĩa Mác-Lênin đã khẳng định, chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất – thế giới vật chất, tồn tại trong mối liên hệ thống nhất biện chứng, tác động qua lại ảnh hưởng lẫn nhau, chúng luôn vận động biến đổi và phát triển không ngừng. Do đó, để cải tạo thế giới, con người phải có nhận thức đúng về quá trình vận động, phát triển của các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. Những vấn đề này đã được phép biện chứng duy vật Mác xít nói chung, nguyên lý về sự phát triển nói riêng làm rõ; đây cũng chính là cơ sở lý luận khoa học để chúng ta nâng cao nhận thức, hiểu biết đúng đắn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay nói chung, quá trình phát triển bền vững kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nói riêng.


➽Hãy về quỳ dưới đất Mẹ, xin lỗi nhân dân, tu tâm dưỡng tính, Tổ quốc sẽ khoan hồng!➽Đáng thương cho Nguyên Thạch: Phận chó cắn càn!




Mặt khác, Phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong quá trình phát triển của mọi quốc gia dân tộc nói chung và Việt Nam nói riêng, đó là quá trình kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ tài nguyên, môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội, nhằm tạo dựng một xã hội ổn định, văn minh và hạnh phúc ở cả hiện tại và trong tương lai xa của đất nước. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước ba thập kỷ qua của nước ta, ngoài việc đem lại những thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực theo hướng phát triển bền vững, cũng đã và đang đặt ra nhiều thách thức không nhỏ: sự phát triển “nhanh” và “nóng” của nền kinh tế, ô nhiễm môi trường đang trở nên ngày càng bức xúc, nhất là ở đô thị và các khu công nghiệp đang gia tăng một cách nhanh chóng... Vì vậy, vấn đề đặt ra đối với chúng ta hiện nay là làm thế nào để vừa giữ được sự tăng trưởng kinh tế cao, hiệu quả bền vững mà vẫn bảo đảm ổn định chính trị và an sinh xã hội, đồng thời bảo vệ được môi trường và ứng phó có hiệu quả với tác động của biến đổi khí hậu.
Để giải quyết những vấn đề trên, nhất là vấn đề phát triển bền vững kinh tế của đất nước, đòi hỏi phải có quan điểm, đường lối đúng đắn, phù hợp trên cơ sở lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, trong đó quán triệt và vận dụng một cách sáng tạo quan điểm về sự phát triển của phép biện chứng duy vật là yêu cầu có tính nguyên tắc, đảm bảo định hướng quá trình phát triển kinh tế một cách hiệu quả, nhanh và bền vững.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài Quan điểm của phép biện chứng về sự phát triển, vận dụng phân tích phát triển bền vững về kinh tế nước ta hiện nay” làm đề tài Tiểu luận.
2. Néi dung gi¶i quyÕt cña ®Ò tµi
Tiểu luận đề cập một số vấn đề lý luận về nguyên lý phát triển của phép biện chứng duy vật, quan niệm về phát triển bền vững kinh tế cũng như thực trạng vận dụng quan điểm về sự phát triển của Đảng và Nhà nước ta trong phát triển bền vững kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
NỘI DUNG
I. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về sự phát triển
Phép biện chứng duy vật là một hệ thống bao gồm nhiều yếu tố, mỗi yếu tố giữ một vai trò khác nhau, nhưng lại có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Trong tác phẩm Bút ký triết học, khi nêu lên 16 yếu tố của phép biện chứng, V.I.Lênin không những khẳng định mối liên hệ giữa các yếu tố đó, mà còn chỉ ra rằng, đó là một hệ thống mở và trong hệ thống ấy thì quy luật “thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập” giữ vai trò quan trọng nhất,  thực chất, là hạt nhân của phép biện chứng. V.I.Lênin viết: “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những sự giải thích và một sự phát triển thêm”[2]. Như vậy, trong kết cấu của phép biện chứng duy vật, các nguyên lý cơ bản - nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là những yếu tố đầu tiên có tính phổ quát nhất, định hướng toàn bộ nội dung, đồng thời xác định những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của cả hệ thống. Trong đó nguyên lý về sự phát triển khẳng định hướng vận động tất yếu của biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan, qua đó, chỉ rõ thực chất của phép biện chứng như là học thuyết về sự phát triển.
1. 1. Định nghĩa về sự phỏt triển
Trong phép biện chứng duy vật, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến gắn liền với nguyên lý về sự phát triển. Tuy nhiên, cũng như mọi vấn đề triết học khác, phát triển cũng được xem xét dưới các giác độ phương pháp luận và thế giới quan khác nhau, đối lập nhau: biện chứng và siêu hình, duy tâm và duy vật.
Quan điểm siêu hình xem xét phát triển chỉ là sự tăng lên hay giảm đi thuần tuý về lượng, không có sự thay đổi về chất. Tất cả tính phong phú muôn vẻ về chất của các sự vật, hiện tượng đều được xem là nhất thành, bất biến trong suốt quá trình tồn tại của nó. Sự phát triển không nhất thiết phải có sự ra đời của cái mới, mọi thay đổi nếu có cũng chỉ diễn ra theo một vòng tròn khép kín. Hơn nữa, quan điểm siêu hình cũng xem xét phát triển như một quá trình tiến lên liên tục, không có những bước quanh co phức tạp và nguồn gốc của nó nằm bên ngoài sự vật, hiện tượng.
Như vậy, việc thừa nhận hay không thừa nhận sự phát triển vẫn không đủ căn cứ để phân biệt một quan điểm biện chứng với một quan điểm siêu hình. Điều chủ yếu để phân định hai quan điểm đó là phải làm rõ quá trình phát triển diễn ra như thế nào.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện.
Theo quan điểm đó, vận động và phát triển là hai khái niệm không đồng nhất với nhau. Vận động chỉ phản ánh sự biến đổi nói chung, không kể tính chất, khuynh hướng hay kết quả của sự biến đổi đó. Còn phát triển phản ánh tính chất, khuynh hướng đi lên của sự biến đổi nói chung ấy. Như vậy, sự phát triển có đặc tính là đi lên, có tính kế thừa nhất định, có sự lặp lại cái cũ trên cơ sở cao hơn và tất yếu có sự ra đời của cái mới. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là đặc tính cố hữu của vật chất, gắn với mọi dạng vật chất. Sự phát triển là một kiểu vận động đặc biệt, được đặc trưng bởi tính xu hướng, tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Vì thế, không phải bất cứ sự vận động nào cũng được coi là sự phát triển.
Sự phát triển bên trong của giới sinh vật thể hiện ở sự tiến hoá từ đơn giản đến phức tạp, từ đơn bào đến đa bào, từ thực vật đến động vật, từ động vật cấp thấp đến động vật cấp cao và đến con người; ở sự không ngừng hoàn thiện các cơ quan chức năng bảo đảm cho sự thích nghi với diễn biến phức tạp của môi trường và sự bảo tồn các giống loài.
Xã hội loài người cũng không phải là một quá trình biến đổi trong đó chỉ toàn những sự biến lộn xộn, ngẫu nhiên, mãi mãi như thế mà là một quá trình không ngừng phát triển được đánh dấu bằng tiến bộ xã hội, biểu hiện ở sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất, sự kế tiếp nhau của các nền văn minh, các hình thái kinh tế - xã hội, v. v..
Tất cả điều ấy đã bác bỏ luận điệu của triết học tư sản hiện đại cho rằng không thể tìm căn cứ khách quan cho tính phổ biến của sự phát triển; rằng sự phát triển chỉ được áp dụng trong những giới hạn hết sức nhỏ hẹp của thế giới, thậm chí, đó chỉ là sự áp đặt mang tính chủ quan, mục đích luận của những người sáng lập ra phép biện chứng duy vật. Những quan niệm này về thực chất là siêu hình, đặt dấu bằng giữa phát triển và biến đổi, chỉ thừa nhận sự biến đổi vô hướng, do đó, nhằm mục đích biện hộ cho sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản.
2. Phép biện chứng với tính cách là khoa học về sự phát triển
Phép biện chứng duy vật khẳng định: sự phát triển của sự vật, hiện tượng là một quá trình khách quan, là sự tự thân phát triển. Đó là một quá trình tiến lên mà nguồn gốc, động lực của nó là cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập bên trong của sự vật, hiện tượng; là một quá trình mà trạng thái tiến lên thông qua các bước nhảy chuyển hoá từ lượng sang chất và ngược lại; là một quá trình tiến lên không phải theo đường thẳng, cũng không phải theo đường vòng tròn mà theo đường “xoáy ốc”, có thể có bước thụt lùi tạm thời, nhưng cái mới sẽ ra đời và chiến thắng. Đó là khuynh hướng tất yếu của sự phát triển. Những quan điểm cơ bản trên đây được trình bày trong những quy luật cơ bản, phổ biến của phép biện chứng duy vật.
Quan điểm trên đây của phép biện chứng duy vật hoàn toàn đối lập với quan điểm duy tâm về sự phát triển. Những người theo quan điểm duy tâm thường tìm nguồn gốc của sự phát triển ở các lực lượng siêu tự nhiên hay ở ý thức chủ quan của con người. Đó là một phương pháp luận sai lầm nên đã bị thực tiễn lịch sử và khoa học bác bỏ.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật, do mâu thuẫn của sự vật quy định. Phát triển, theo quan điểm duy vật biện chứng, là quá trình tự thân của mọi sự vật, hiện tượng. Do vậy, quá trình đó diễn ra khách quan, độc lập với ý thức con người.
Quan điểm duy vật biện chứng về sự phát triển không chỉ thừa nhận tính khách quan của sự phát triển mà còn khẳng định tính phổ biến của quá trình này.
 Khái quát sự đối lập giữa quan điểm duy vật và quan điểm duy tâm, giữa quan điểm biện chứng và phép siêu hình về sự phát triển, V.I.Lênin viết: “Hai quan niệm cơ bản... về sự phát triển (sự tiến hoá): sự phát triển coi như là giảm đi và tăng lên, như là lặp lại, và sự phát triển coi như là sự thống nhất của các mặt đối lập (sự phân đôi của cái thống nhất thành những mặt đối lập bài trừ lẫn nhau và mối quan hệ lẫn nhau giữa những mặt đối lập ấy)... quan niệm thứ nhất là chết cứng, nghèo nàn, khô khan. Quan niệm thứ hai là sinh động. Chỉ có quan niệm thứ hai mới cho ta chìa khoá của sự “tự vận động” của tất thảy mọi cái đang tồn tại; chỉ có nó mới cho ta chìa khoá của những “bước nhảy vọt”, của sự “gián đoạn của tính tiệm tiến”, của sự “chuyển hoá thành mặt đối lập”, của sự tiêu diệt cái cũ và sự nảy sinh ra cái mới”[3].
3. í nghĩa phương phỏp luận của quan điểm biện chứng duy vật về sự phỏt triển
Tự nhiên, xã hội, tư duy đều nằm trong quá trình vận động và phát triển không ngừng. Bản chất khách quan đó của hiện thực đòi hỏi chúng ta phải quán triệt quan điểm phát triển trong nhận thức và thực tiễn.
 Nếu phát triển là một quá trình đổi mới không ngừng thì nhiệm vụ của khoa học là phải nghiên cứu xem xét các sự vật, hiện tượng của thế giới đang vận động, biến đổi từ dạng này qua dạng khác, từ giản đơn đến phức tạp, từ thấp đến cao như thế nào. V.I.Lênin chỉ rõ: “Điều kiện quan trọng nhất của một sự nghiên cứu khoa học là không nên quên mối liên hệ lịch sử căn bản, là xem xét mỗi vấn đề theo quan điểm sau đây: một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào, hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào và đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để xét xem hiện nay nó đã trở thành như thế nào”[4]
Quan điểm phát triển với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận nhận thức hiện thực, đòi hỏi chúng ta không chỉ thấy sự vật như là cái đang có, mà còn phải nắm được khuynh hướng phát triển tương lai của nó; không chỉ thống kê được những khuynh hướng vận động phức tạp của nó, mà còn phải khái quát và làm sáng tỏ được xu hướng vận động, phát triển chủ đạo của nó.
Theo đó, việc phát hiện và ủng hộ cái mới và loại trừ cái cũ đều là công việc hết sức cần thiết trong quá trình phát triển của sự vật. Điều này hết sức quan trọng trong thực tiễn xã hội. Vấn đề có tính quy luật là đi liền với cái mới, bao giờ cũng có cái cũ, cái cũ có lúc nhiều hơn, mạnh hơn, thậm chí còn được che giấu. Vì thế, chỉ có niềm tin vào sự tất thắng của cái mới chưa đủ, mà phải tỉnh táo, sắc sảo phân biệt cái mới với cái cũ, cái giả danh là mới; phải thông qua hành động thực tiễn làm chuyển biến tương quan lực lượng giữa cái cũ và cái mới, làm cho cái mới mạnh lên, cái cũ suy yếu dần đi trong quá trình phát triển của sự vật.
Sự phát triển của các sự vật, hiện tượng trong thực tế là một quá trình biện chứng đầy mâu thuẫn. Do vậy, đòi hỏi chúng ta phải thấy rõ tính chất quanh co, phức tạp của mọi quá trình phát triển. Thiếu quan điểm khoa học như trên, người ta rất dễ bi quan, dao động khi tạm thời gặp khó khăn trắc trở trong quá trình hoạt động thực tiễn.
Những thành tựu cách mạng nước ta mấy chục năm qua cũng như những thành công to lớn của công cuộc đổi mới những năm gần đây dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng minh rằng, cách mạng nước ta đang đi đúng quy luật của sự phát triển. Kiên định sự nghiệp đổi mới toàn diện nhưng có nguyên tắc, tỉnh táo cảnh giác vạch trần và kiên quyết đập tan mọi mưu đồ của các thế lực thù địch đối với độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sự bảo đảm cho thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
II. Vận dụng quan điểm duy vật biện chứng về sự phát triển trong phát triển kinh tế bền vững ở nước ta hiện nay.
1. Khái lược về phát triển bền vững kinh tế
Khái niệm "phát triển bền vững" (PTBV) xuất hiện trong phong trào bảo vệ môi trường từ những năm đầu của thập niên 70 của thế kỷ 20. Năm 1987, trong Báo cáo "Tương lai chung của chúng ta" của Hội đồng Thế giới về Môi trường và Phát triển (WCED) của Liên hợp quốc, "phát triển bền vững" được định nghĩa "là sự phát triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại, nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau".
Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển tổ chức ở Rio de Janeiro (Braxin) năm 1992 và Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về PTBV tổ chức ở Johannesburg (Cộng hoà Nam Phi) năm 2002 đã xác định "phát triển bền vững" là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà giữa 3 mặt của sự phát triển, gồm: phát triển kinh tế (nhất là tăng trưởng kinh tế), phát triển xã hội (nhất là thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; xoá đói giảm nghèo và giải quyết việc làm) và bảo vệ môi trường (nhất là xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường; phòng chống cháy và chặt phá rừng; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên). Tiêu chí để đánh giá sự PTBV là sự tăng trưởng kinh tế ổn định; thực hiện tốt tiến bộ và công bằng xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và nâng cao được chất lượng môi trường sống.
Như vậy, phát triển bền vững kinh tế là một bộ phận cơ bản, và là trụ cột quan trọng của quá trình phát triển bền vững của mỗi quốc gia dân tộc, là nhân tố chi phối, quyết định đến sự phát triển bền vững trên những lĩnh vực khác. Theo đó, mỗi nền kinh tế được coi là bền vững cần đạt được những yêu cầu như: Có tăng trưởng GDP và GDP đầu người đạt mức cao. Nước phát triển có thu nhập cao vẫn phải giữ nhịp độ tăng trưởng, nước càng nghèo có thu nhập thấp càng phải tăng trưởng mức độ cao. Các nước đang phát triển trong điều kiện hiện nay cần tăng trưởng GDP vào khoảng 5%/năm thì mới có thể xem có biểu hiện phát triển bền vững về kinh tế. Trường hợp có tăng trưởng GDP cao nhưng mức GDP bình quân đầu người thấp thì vẫn coi là chưa đạt yêu cầu phát triển bền vững. Có tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP cao hơn nông nghiệp; tăng trưởng kinh tế phải là tăng trưởng có hiệu quả cao, đi đôi với thực hiện công bằng và bình đẳng xã hội, không chấp nhận tăng trưởng bằng mọi giá.
2. Sự vận dụng quan điểm duy vật biện chứng về sự phát triển của Đảng và Nhà nước ta trong phát triển bền vững nền kinh tế hiện nay.
Bắt nhịp bước đi của thời đại, đồng thời trung thành với chủ nghĩa Mác - Leenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về sự phát triển, Đảng và Chính phủ đã sớm nhận thức tầm quan trọng của phát triển bền vững.
Từ sau Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển được tổ chức tại Rio de Janeiro (Braxin) năm 1992 đến nay đã có 113 nước trên thế giới xây dựng và thực hiện Chương trình nghị sự 21 về PTBV cấp quốc gia và 6.416 Chương trình nghị sự 21 cấp địa phương, đồng thời tại các nước này đều đã thành lập các cơ quan độc lập để triển khai thực hiện chương trình này. Việt Nam và các địa phương trong cả nước là một trong số những quốc gia tích cực xây dựng và thực hiện Chương trình nghị sự 21 về phát triển bền vững.
Quan điểm PTBV đã được khẳng định trong Chỉ thị số 36 - CT/TW ngày 25 tháng 6 năm 1998 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trong đó nhấn mạnh: "Bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước". Quan điểm PTBV đã được tái khẳng định trong các văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X, XI và được bàn thảo trong Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Có thể nói PTBV đã trở thành đường lối, quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước. Để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, nhiều chỉ thị, nghị quyết khác của Đảng, nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước đã được ban hành và triển khai thực hiện; nhiều chương trình, đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này đã được tiến hành và thu được những kết quả bước đầu; nhiều nội dung cơ bản về PTBV đã đi vào cuộc sống và dần dần trở thành xu thế tất yếu trong sự phát triển của đất nước.
Thực hiện quan điểm của Đảng, căn cứ vào Chương trình hành động thế kỷ XXI của quốc tế, ngày 17-8-2004, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 154/2004/QĐ-TTg “Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam” (còn gọi là Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam). Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam nêu bật những vấn đề đang đặt ra trong ba lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường, những thách thức mà nước ta đang phải đối phó. Chiến lược đã tạo lập mối quan hệ tương hỗ giữa các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường; đã xác định khung thời gian để thực hiện và gắn trách nhiệm của các ngành, các địa phương, các tổ chức và các nhóm xã hội; đã tính tới việc sử dụng các nguồn lực tổng hợp để thực hiện chiến lược. Chính phủ cũng đã thành lập Hội đồng phát triển bền vững quốc gia để chỉ đạo, giám sát việc thực hiện các mục tiêu đã đề ra.
Mặc dù việc triển khai tổ chức thực hiện Chiến lược phát triển bền vững chưa lâu nhưng chúng ta đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, tạo điều kiện thuận lợi cho các bước tiếp theo. Trên phương diện kinh tế, có thể nêu một số nét nổi bật sau đây:
- Về phương diện nhận thức:

Đảng ta đã có quan điểm đồng bộ, toàn diện về phát triển bền vững kinh tế. Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, Đảng ta xác định: “Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược”. Đồng thời đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển; Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao; đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hoàn thiện thể chế để tháo gỡ mọi cản trở, tạo điều kiện thuận lợi để giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ; huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển. Phát triển nhanh, hài hoà các thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp. Phải tăng cường tiềm lực và nâng cao hiệu quả của kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng mà nòng cốt là hợp tác xã. Khuyến khích phát triển các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp mà chủ yếu là các doanh nghiệp cổ phần để loại hình kinh tế này trở thành phổ biến trong nền kinh tế, thúc đẩy xã hội hoá sản xuất kinh doanh và sở hữu. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh tế. Khuyến khích kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển theo quy hoạch. Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch. Phát triển đồng bộ, hoàn chỉnh và ngày càng hiện đại các loại thị trường. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý và phân phối, bảo đảm công bằng lợi ích, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội. Đặc biệt, Đảng ta khẳng định cần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng

- Về phương diện thực tiễn:
Quá trình thực hiện phát triển bền vững kinh tế, đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển.
Mô hình tăng trưởng từ chủ yếu theo chiều rộng đã bước đầu có sự chuyển biến sang kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu; đã hình thành những mô hình mới và cách làm mới, sáng tạo. Với việc cơ cấu lại nền kinh tế và thực hiện ba đột phá chiến lược, nhất là trên một số lĩnh vực trọng tâm, năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế có bước cải thiện; bảo đảm hài hoà hơn giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tiếp tục được đẩy mạnh, đạt một số thành quả. Công nghệ sản xuất công nghiệp đã có bước thay đổi về trình độ theo hướng hiện đại. Tỉ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong giá trị sản xuất công nghiệp tăng, tỉ trọng công nghiệp khai thác giảm dần. Khu vực thương mại, dịch vụ tăng trưởng khá; cơ cấu xuất khẩu chuyển dịch phù hợp với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn có chuyển biến, mức độ cơ giới hoá trong nông nghiệp tăng; nông nghiệp phát triển toàn diện hơn theo hướng khai thác những lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới; xây dựng nông thôn mới có nhiều tiến bộ. Cơ cấu kinh tế vùng được quan tâm, có sự chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng, lợi thế của từng vùng và thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, địa phương. Cơ cấu lao động có sự chuyển dịch tích cực; chất lượng nguồn nhân lực bước đầu cải thiện. Đội ngũ doanh nhân tuy còn gặp nhiều khó khăn nhưng đã có những đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội có bước phát triển; quá trình đô thị hoá diễn ra khá nhanh. Hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, góp phần thúc đẩy quá trình tham gia vào mạng sản xuất, chuỗi giá trị toàn cầu, nâng cao giá trị gia tăng của nền kinh tế.
Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn những hạn chế, bất cập, chưa thực sự bền vững và hiệu quả, nguồn lực phát triển còn thấp nên những yêu cầu về phát triển bền vững ít có đủ điều kiện vật chất để thực hiện. Đầu tư được tập trung chủ yếu cho những công trình mang lại lợi ích trực tiếp, còn rất ít đầu tư cho tái tạo các nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Mức độ chế biến, chế tác nguyên vật liệu trong nền kinh tế Việt Nam còn rất thấp và mức độ chi phí nguyên, nhiên, vật liệu cho một đơn vị giá trị sản phẩm còn cao; sản phẩm tiêu dùng trong nước cũng như xuất khẩu phần lớn là sản phẩm thô; sự tăng trưởng kinh tế chủ yếu là theo chiều rộng...trong khi đó những nguồn tài nguyên thiên nhiên chỉ có hạn và đã bị khai thác đến mức tới hạn. Xu hướng giảm giá các sản phẩm thô trên thị trường thế giới gây ra nhiều khó khăn cho tăng trưởng nông nghiệp ở Việt Nam. Với cơ cấu sản xuất như hiện nay, để đạt được một giá trị thu nhập như cũ từ thị trường thế giới, Việt Nam đã phải bán đi một số lượng hàng hoá hiện vật nhiều hơn trước. Các mục tiêu phát triển của các ngành có sử dụng tài nguyên thiên nhiên còn mâu thuẫn nhau và chưa được kết hợp một cách thoả đáng. Các cấp chính quyền ở cả Trung ương và địa phương chưa quản lý có hiệu quả việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường.

KẾT LUẬN
Nguyên lý về sự phát triển là bộ phận căn bản, là tư tưởng cơ bản, xuyên suốt và cốt lõi của phép biện chứng duy vật. Nguyên lý xuất phát của phép biện chứng duy vật là nguyên lý xem thế giới các sự vật, hiện tượng như một chỉnh thể động có khả năng tự phát triển theo những quy luật khách quan, vốn có và phổ biến của nó. Nội dung bao trùm của phép biện chứng duy vật là ở sự luận giải về nguồn gốc, động lực, trạng thái, khuynh hướng cũng như tính phong phú muôn vẻ trong sự vận động chuyển hoá và phát triển không ngừng của thế giới hiện thực. Nói cách khác, phép biện chứng duy vật, xét về thực chất là học thuyết sâu sắc nhất và không phiến diện về sự phát triển. Có thể khẳng định, tư tưởng cơ bản, xuyên suốt và cốt lõi của phép biện chứng duy vật là tư tưởng về sự phát triển. Nguyên lý xuất phát của phép biện chứng duy vật là nguyên lý xem thế giới các sự vật, hiện tượng như một chỉnh thể động có khả năng tự phát triển theo những quy luật khách quan, vốn có và phổ biến của nó. Nội dung bao trùm của phép biện chứng duy vật là ở sự luận giải về nguồn gốc, động lực, trạng thái, khuynh hướng cũng như tính phong phú muôn vẻ trong sự vận động chuyển hoá và phát triển không ngừng của thế giới hiện thực. Nói cách khác, phép biện chứng duy vật, xét về thực chất là học thuyết sâu sắc nhất và không phiến diện về sự phát triển. Vì thế, việc nghiên cứu toàn diện và vận dụng phép biện chứng duy vật có ý nghĩa hết sức quan trọng, nhằm xây dựng thế giới quan duy vật triệt để và hệ phương pháp phổ biến, khoa học trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, trong đó có thực tiễn xây dựng, phát triển kinh tế bền vững ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Để vận dụng hiệu quả quan điểm về sự phát triển của phép biện chứng duy vật vào quá trình phát triển kinh tế bền vững ở nước ta hiện nay, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và các chủ thể kinh tế - xã hội nhận thức sâu sắc giá trị, ý nghĩa phương pháp luận của quan điểm này, đồng thời triển khai đồng bộ, toàn diện trong thực tiễn xây dựng và phát triển kinh tế, gắn với giững ổn định chính trị, an toàn xã hội và bảo vệ môi trường. Đồng thời, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về kinh tế - xã hội và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội. Đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát huy vai trò làm chủ của nhân dân; bảo đảm quyền tự do, dân chủ trong hoạt động kinh tế của người dân theo quy định của Hiến pháp, pháp luật và sự tham gia có hiệu quả của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng và giám sát việc thực hiện thể chế kinh tế và phát triển kinh tế - xã hội. Có như vậy mới tạo được sự phát triển kinh tế nhanh và bền vững ở nước ta hiện nay.







[1] C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tp,  Nxb CTQG, Hà Ni 1994,  tp 20,  tr. 321.
[2] V. I. Lênin, Toàn tp, Nxb Tiến b, M. 1981, tp 29,  tr. .240.
[3] V. I. Lênin, Toàn tp, Nxb Tiến b, M. 1981, tp 29,  tr. 379.
[4] V. I. Lênin, Toàn tp, Nxb Tiến b, M. 1981, tp 29,  tr. 78. 

0 nhận xét: