CHÀO MỪNG ĐẾN VỚI BLOG GIỮ TRỌN LỜI THỀ

Nhân đọc lá thư “Cu Tèo” gửi Tổng thống Mỹ Donald Trump

(giữ trọn lời thề) - Cuối cùng, Tèo chả “xin” được gì cả, nên đành cố vớt vát, mách cho cụ “Trăm” mấy chiêu những mong cụ thương tình...

Ổn định chính trị - xã hội là cơ sở để chiến thắng "Diễn biến hòa bình"

(giữ trọn lời thề) - “Diễn biến hoà bình” đã và đang được các thế lực thù địch coi là chiến lược tối ưu để thủ tiêu chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới...

Đẩy mạnh học tập tư tương đạo đức Hồ Chí Minh gắn với chống suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên

kllvobi.blogspot.com - Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống nhân ái...

Tư tưởng Hồ Chí Minh - giá trị không thể phủ nhận

(giữ trọn lời thề) - Tư tưởng Hồ Chí Minh - tài sản tinh thần quý báu của Đảng và dân tộc Việt Nam...

Đáng thương cho Nguyên Thạch: Phận chó cắn càn!

(giữ trọn lời thề) - Quê hương đích thực không cần những cá nhân vô đạo, ăn cháo đá bát, cõng rắn cắn gà nhà...

Thứ Ba, 31 tháng 1, 2023

GIAO LƯU NGHỆ THUẬT "MÃI MÃI NIỀM TIN THEO ĐẢNG"

           Chào mừng kỷ niệm 93 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930/3-2-2023), tối 28-1, Bộ Biên tập Tạp chí Cộng sản phối hợp với Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương, Đảng ủy Tập đoàn Dầu khí Việt Nam tổ chức chương trình giao lưu nghệ thuật “Mãi mãi niềm tin theo Đảng”.

 

          Dự chương trình có các đồng chí: Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương; Nguyễn Trọng Nghĩa, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương. Đại biểu Quân đội có Trung tướng Trịnh Văn Quyết, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.

          “Mãi mãi niềm tin theo Đảng” gồm 3 phần: Đảng ta đó hân hoan một niềm tin; Đảng quang vinh soi rọi hướng tương lai; Khát vọng Việt Nam. Chương trình đã đưa các đại biểu ôn lại quá trình xây dựng và trưởng thành của Đảng Cộng sản Việt Nam. 93 mùa xuân của Đảng là 93 mùa xuân trải qua thăng trầm nhưng đầy vinh quang và kiêu hãnh với vai trò là ngọn cờ lãnh đạo, một lòng trung hiếu với đất nước và dân tộc, chiến đấu hy sinh vì lợi ích của nhân dân.

          “Mãi mãi niềm tin theo Đảng” thể hiện lòng quyết tâm của toàn đảng, toàn dân, toàn quân ta, trong sự nghiệp xây dựng chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng và phát triển nền dân chủ XHCN, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền, cải cách hành chính, cải cách tư pháp...

SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG LÀ BƯỚC NGOẶT VĨ ĐẠI TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM

           Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta.

          Sự ra đời của Đảng là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân trọn vẹn nhất cho sự kết hợp đó, là tiêu biểu sáng ngời cho sự kết hợp giai cấp và dân tộc, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.

          Việc thành lập Đảng là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử công nhân và của cách mạng Việt Nam, chứng tỏ giai cấp vô sản nước ta trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng, chấm dứt thời kì khủng hoảng về vai trò lãnh đạo và đường lối trong phong trào cách mạng Việt Nam. Từ đây, cách mạng Việt Nam đã thuộc quyền lãnh đạo tuyệt đối của giai cấp công nhân mà đội tiên phong là Đảng cộng sản.

          Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi ra đời, Đảng đã có Cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam. Chính đường lối này là cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc cùng chung tư tưởng và hành động để tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại giành những thắng lợi to lớn sau này. Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định phương hướng phát triển, bước đi của cách mạng Việt Nam trong suốt 86 năm qua.

          Với chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, ĐCSVN đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang. Đồng thời cách mạng Việt Nam cũng góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.

ĐỐT LÒ VÌ NƯỚC VÌ DÂN


 Nạn tham nhũng làm nghèo đất nước

Khiến Đảng ta đứng trước suy vong

Cho nên phải đốt lò hồng

Chống tham nhũng mới yên lòng muôn dân

Chữ liêm chính quan cần ghi nhớ

Đạn bọc đường dụ dỗ kẻ tham

Nếu không bản lĩnh vững vàng

Tham ô tham nhũng rõ ràng nội xâm

Không vùng cấm quyết làm trong sạch

Để Đảng ta vững mạnh nghiêm minh

Làm sao đập chuột giữ bình

Cắt ung trị nhọt mới nhanh phục hồi

Lò đã nóng củi tươi cũng cháy

Tay nhúng chàm tội ấy chạy đâu

Cúi đầu nhận tội cho mau

Chối quanh bỏ trốn trước sau vào lò

Dù ranh mãnh lắm trò nhiều kế

Lũ mọt sâu không thể thoát thân

Công minh sáng suốt nhân văn

Chống tham nhũng quyết dưới trên đồng lòng

Nhốt quyền lực trong lồng cơ chế

Để tham quan không thể lộng quyền

Giữ cho trong ổn ngoài yên

Vinh quang đất nước ngày thêm mạnh giàu .


 

ĐIỆP VIÊN HUYỀN THOẠI

 

          Ai đã từng xem bộ phim Biệt động Sài Gòn chắc hẳn không thể quên hình ảnh ông chủ hãng sơn Đông Á điển trai, hào hoa, thanh lịch. Ít ai biết rằng, nguyên mẫu cho nhân vật ông chủ hãng sơn ấy là Anh hùng LLVT Trần Văn Lai, biệt danh là thầy Năm USOM (Mai Hồng Quế).

Cuộc đời đầy bí ẩn của con người phi thường

          Nhân kỷ niệm 40 năm ngày thống nhất đất nước, ông Trần Văn Lai được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân. Từ đây, một phần đời đầy bí ẩn của con người phi thường, nhiều mặt được hé lộ.

          Anh hùng Trần Văn Lai sinh ra trong một gia đình có truyền thống hiếu học tại làng Đông Trì, xã Vũ Đông, huyện Kiến Xương (tỉnh Thái Bình). Xuất thân trong dòng họ Trần Đông A nổi tiếng, là hậu duệ của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Ngay từ 8 tuổi, Trần Văn Lai đã được học chữ Nho, chữ Quốc ngữ tại làng Bo (quê ngoại) thuộc xã Hoàng Diệu, huyện Đông Quan, tỉnh Thái Bình (nay là phường Hoàng Diệu, TP. Thái Bình). Năm 13 tuổi ông lên Hà Nội, được quan Án sát Phạm Gia Nùng nhận làm con nuôi và ở giúp việc nhà quan án sát, chuyên tiêm thuốc cho các quan thầy và đã sớm được giác ngộ cách mạng khi mới 16 tuổi.

          Trong những năm kháng chiến chống Pháp, ông tham gia công tác tuyên truyền, xây dựng cơ sở, lực lượng cách mạng trong đơn vị của Trung tướng Nguyễn Bình, Tư lệnh của các lực lượng vũ trang miền Nam. Những năm 1945 - 1954, ông được cử làm Tổ trưởng Chiến đấu Thanh niên Tiền phong Công đoàn thành Sài Gòn, Tổ trưởng Trừ gian Phá hoại Ban công tác 1 thuộc 10 Ban Công tác thành thuộc Chiến khu 7 và Tiểu đội trưởng Vận động thành, thuộc Tiểu đoàn Quyết tử 950 Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Từ 1952 – 1954, ông là cán bộ nằm vùng tổ chức xây dựng cơ sở thuộc Quận ủy 2 (Công ty 2) thành Sài Gòn.

          Sau Hiệp định Geneva, Trần Văn Lai được Đảng giao nhiệm vụ ở lại Sài Gòn hoạt động, vì đã xây dựng được nhiều cơ sở trong nhân dân, được nhân dân đùm bọc, che chở. Để che mắt địch, ông đã tổ chức các nghiệp đoàn công khai đấu tranh hợp pháp và bắt đầu nhận nhiệm vụ xây dựng các cơ sở bí mật trong nội thành Sài Gòn.

          Trước nhiệm vụ cách mạng đặt ra, Trần Văn Lai tham gia và sau là lãnh đạo phong trào Phật giáo quận 3, phát triển đấu tranh kết hợp với các phong trào tôn giáo. Tổng hành dinh chính của phong trào là Chùa Xá Lợi, quận 3. Đỉnh điểm của phong trào đấu tranh tôn giáo quận 3 do Trần Văn Lai lãnh đạo là sự kiện Thích Quảng Đức tự thiêu dẫn đến chế độ nhà Ngô (nền Đệ Nhất Cộng Hòa) bị lật đổ 01/11/1963.

          Nén nỗi đau riêng để âm thầm hoạt động

          Trong hồi ức của các chiến sĩ biệt động một thời, họ còn nhớ rõ những hy sinh của ông Lai cho cuộc chiến của dân tộc. Một trong những nỗi đau lớn là sự hy sinh của người vợ đầu, tức bà Chinh. Chính vì hoạt động đứng ra bảo lãnh hai cán bộ cách mạng kiên trung đang bị cầm tù tại Côn Đảo, sau giai đoạn cuộc đảo chính lật đổ chính quyền gia đình trị Ngô Đình Diệm, rồi đưa hai người này ra căn cứ thành công mà bà Chinh bị chính quyền ngụy Sài Gòn bắt giữ tra tấn đến mức qua đời. Tuy nhiên nén nỗi đau, ông Lai vẫn âm thầm hoạt động.

Để có một cuộc tấn công thẳng vào Dinh Độc Lập, “trái tim” của Mỹ - Ngụy, Trần Văn Lai đã chuẩn bị suốt 6 năm từ khi Quân khu ủy chỉ đạo chuẩn bị lực lượng, cất giấu vũ khí cho nhiệm vụ chiến lược.

          Được tin cậy giao làm chủ thầu khoán, chịu trách nhiệm trang trí nội thất Dinh Độc Lập, các thương vụ làm ăn sau đó khiến Trần Văn Lai trở thành tỷ phú Mai Hồng Quế nổi tiếng đất Sài Gòn.

          Khi nhận nhiệm vụ chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, biết đây là một nhiệm vụ rất lớn và vô cùng gian khó nên Trần Văn Lai đã phải bán hai căn biệt thự của mình ở số 6 và số 8 Tự Đức, quận Phú Nhuận (nay là Nguyễn Thị Huỳnh, phường 8, quận Phú Nhuận) trích ra 800.000 đồng Sài Gòn gửi vào nhà băng Trung Quốc để chi dùng cho công cuộc cách mạng của Quân khu (hiện vẫn còn tập séc của nhà băng Trung Quốc đề tên Mai Hồng Quế, điều này có xác nhận của nhiều người). Đồng thời mua 7 căn nhà gần những mục tiêu ta sẽ tấn công như: Dinh Độc Lập, Tòa Đại sứ Mỹ, Đài Phát thanh...

          Đặc biệt là mua căn nhà số 287 Trần Quý Cáp, gồm 3 căn liền nhau 68, 70, 72 để đào thành một căn hầm chứa vũ khí. Số vũ khí này đã được sử dụng đánh Dinh Độc Lập, Đài Phát thanh, Bộ Tư lệnh Hải quân, Tòa Đại sứ Mỹ...

          Ra vào thường xuyên Dinh Độc Lập, ông có điều kiện thuận lợi lập nhiều chiến công: Vẽ bản đồ chi tiết, cách bố trí phòng, lịch trình hoạt động tại Dinh, xây dựng cơ sở, đưa đón cán bộ vào thị sát tình hình, chuyển tiền vàng về phục vụ kháng chiến. Ông cũng là “tác giả” của hàng loạt hầm trú ẩn, chứa một khối lượng vũ khí lớn phục vụ các đơn vị đánh thẳng vào Dinh Độc Lập và nhiều mục tiêu quan trọng khác của chính quyền Mỹ, Ngụy tại Sài Gòn trong cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân năm 1968.

          Chính những ngày hoạt động trong lòng địch căng thẳng đến từng giây, bao chiến công hiển hách của Trần Văn Lai và đồng đội đã trở thành chất liệu sống cho bộ phim “Biệt động Sài Gòn”, một trong các tác phẩm điện ảnh kinh điển của Việt Nam.

Sau Chiến dịch Mậu Thân 1968, Trần Văn Lai bị lộ. Ông bị ngụy quyền Việt Nam Cộng hòa truy bắt gắt gao và treo thưởng 1 triệu đồng cho những ai bắt được ông. Phần lớn tài sản bị địch tịch thu, bản thân Trần Văn Lai phải tạm lánh về quê vợ ở Quảng Ngãi nương náu. Đến năm 1970 và 1972, ông hai lần bị địch bắt giam ở Quảng Ngãi, nhưng với tên giả là Phạm Sửu, chúng vẫn không biết được hoạt động trước đây của ông ở Sài Gòn.

          Sau khi kết thúc chiến tranh, Anh hùng Trần Văn Lai về công tác tại Đơn vị Tiền phương B12, Bộ Tư lệnh thành đội Sài Gòn - Gia Định, được giao nhiệm vụ truy quét tàn quân địch, tiếp quản nhà của quân địch khi bỏ chạy. Sau đó làm Trưởng Ban quản lý Thương xá Tam Đa. Năm 1977, ông về công tác tại Phòng Tổng kết chiến tranh, Bộ Tư lệnh thành phố, là Thương binh hạng 1/4, mất 81% sức khỏe, nên năm 1981 nghỉ hưu. Mãi đến tháng 6/2002, khi ông “chủ thầu khoán Dinh Độc Lập” - tỷ phú Mai Hồng Quế nổi tiếng, là nguyên mẫu của nhân vật ông chủ Hãng sơn Đông Á trong phim “Biệt động Sài Gòn” trút hơi thở cuối cùng tại tư gia, nhiều người mới biết tường tận về ông tỷ phú từng là biệt động Sài Gòn. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, rất nhiều những góc khuất của những con người đã từng khiến kẻ thù nhiều phen kinh hoảng với những đợt tấn công “xuất quỷ nhập thần” thuở nào vẫn còn vô số các bí ẩn chưa được giải mã.

Gần nửa thế kỷ đã trôi qua, dấu tích của một thời kỳ đấu tranh khốc liệt cũng dần phai mờ, bao câu chuyện xung quanh những con người phi thường vẫn còn đó nhiều bí ẩn cần tiếp tục được giải mã.

          Nhận xét và đánh giá về anh hùng Trần Văn Lai trong thời gian công tác từ 1954 đến 1962, đồng chí Phan Trung Kiên - nguyên Cán bộ Quận ủy Quận 2 (Công ty 2) phụ trách địa bàn gồm những vùng Trương Minh Giảng, Phú Nhuận, Tân Định, Đa Kao, Bà Chiểu và Bình Hòa thuộc thành Sài Gòn - Gia Định cho biết: “Đồng chí Trần Văn Lai có khả năng đặc biệt về nghi trang, biến dạng trong mọi hoàn cảnh để thâm nhập một cách hợp pháp vào các cơ sở của địch. Biết vận dụng đường lối của Đảng vào công tác tuyên truyền, giáo dục quần chúng đông đảo trong tầng lớp công nhân lao động nằm trong tổ chức cũng như ngoài tổ chức tiếp thu mọi chủ trương của Đảng. Đồng chí là một đảng viên có tinh thần chịu đựng gian khổ, kiên trì nhẫn nại, khắc phục mọi khó khăn, luôn luôn chủ động sáng tạo, nhạy bén đối phó với mọi tình huống xảy ra, đồng thời luôn luôn có tinh thần tổ chức kỷ luật trong mọi trường hợp gay go và phức tạp…”

 

CÁI ÔM CỦA SỰ BIẾT ƠN!

 Bức ảnh 1 cô gái ôm chầm lấy người lính cứu hỏa sau khi cô cùng 10 người khác được cứu ra ngoài sau vụ cháy ở Cầu Giấy, Hà Nội vào tháng 10/2022 đã khiến nhiều người chúng ta xúc động. Một cảm xúc vỡ òa khi tất cả mọi người đều an toàn, đều tri ân trước nỗ lực không biết mệt mỏi và đầy nguy hiểm của các chiến sĩ phòng cháy, chữa cháy. Đó là một cái ôm sinh tử và là một cái ôm của sự biết ơn. Người chiến sĩ PCCC đó chính là đồng chí thiếu tá Nguyễn Minh Đức và cô gái được cứu là Mai Linh. Và không chỉ người được cứu, mà chính người được ôm cũng xúc động, bất ngờ trước cái ôm đó khi anh chia sẻ "Đi chữa cháy nhiều rồi nhưng có lẽ đó cũng là lần đầu tiên mà có một nạn nhân được cứu đã bày tỏ lòng cảm ơn bằng một chiếc ôm như vậy".

 Bức ảnh về cái ôm đó vẫn lan tỏa trên mạng như phản ánh sự vất vả, hiểm nguy nghề cứu hỏa, thể hiện lời biết ơn đến các anh nhưng cũng từ đó, hai chú cháu, nhân vật chính của bức ảnh chưa được gặp lại nhau. Tuy nhiên, trong chường trình Gala Việc tử tế 2023: Trái tim mặt trời của VTV vừa qua, hai chú cháu được có cơ hội gặp lại nhau.

Hơn 3 tháng sau vụ cháy, sau khoảnh khắc sinh tử ấy, niềm xúc động khi gặp lại nhau giữa hai chú cháu vẫn còn vẹn nguyên như mới đây thôi. Cô gái vẫn lao vào ôm chặt lấy người lính cứu hỏa như khoảnh khắc được các anh cứu ra khỏi đám cháy. Hai bức ảnh, hai khoảnh khắc như một và chắc chắn là cảm xúc trong cái ôm đó vẫn còn vẹn nguyên. Khoảnh khắc đó rất chân thực bởi họ không phải là diễn viên, cái ôm chặt đó xuất phát từ tình cảm biết ơn thực sự từ Mai Linh.

Những bức ảnh hơn ngàn lời nói. Một lần nữa, chúng ta dành lời cảm ơn, biết ơn đến công việc vất vả, đầy nguy hiểm của những người lính PCCC. Khi những người lính này đi làm nhưng luôn muốn thất nghiệp, khi người ta chạy ra còn các anh lại chạy vào mỗi khi gặp hiểm nguy./.

 

LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA (31/01)

 "… công việc nào cũng quan trọng, cũng cần thiết và những người quyết tâm làm tròn nhiệm vụ đều là chiến sĩ, anh hùng".

Đây là lời thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cán bộ, ngành thương binh, cựu binh, nhân Hội nghị cán bộ ngành thương binh, cựu binh vào tháng một năm 1954; trong khi quân và dân ta đang mở các chiến dịch lớn tiến công địch trên các chiến trường toàn quốc; cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện của nhân dân ta tiến đến giai đoạn quyết định, cần phải tập trung xây dựng sức mạnh tổng lực, trong đó lực lượng quân sự tiếp tục được củng cố vững chắc về chính trị và tinh thần; đồng thời cần sự quan tâm, chung sức của hậu phương đối với tiền tuyến, đáp ứng yêu cầu của cuộc quyết chiến chiến lược giành thắng lợi.

 

Lời thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khen về những việc làm tiến bộ; đồng thời chỉ rõ: "… Công việc bất kỳ to nhỏ, bất kỳ ngành nào, địa vị bất kỳ cao thấp - đều vì kháng chiến, vì dân tộc. Cho nên công việc nào cũng quan trọng, cũng cần thiết và những người quyết tâm làm tròn nhiệm vụ đều là chiến sĩ, anh hùng". Qua đó Người thẳng thắn nhắc nhở các đại biểu và tất cả cán bộ, nhân viên trong ngành thương binh, cựu binh phải hiểu thật rõ ràng khuyết điểm; phải bàn bạc kỹ càng, đặt kế hoạch thiết thực, để giúp mọi người sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm; nghiêm túc, thật thà tự phê bình và phê bình, để cố gắng thi đua làm tròn nhiệm vụ.

Lời của Người được Hội nghị và các đại biểu quán triệt, rút kinh nghiệm sâu sắc; được lãnh đạo của ngành chỉ đạo tổ chức đợt sinh hoạt kiểm điểm tự phê bình và phê bình nghiêm túc; nhận rõ vai trò quan trọng và trách nhiệm chính trị cao cả của ngành thương binh, cựu binh; xây dựng kế hoạch, đoàn kết thi đua phấn đấu thực hiện tốt nhiệm vụ chăm sóc đời sống tinh thần và vật chất cho anh em thương bình, bệnh binh, góp phần củng cố vững chắc yếu tố chính trị tinh thần của quân và dân ta, thực hiện thắng lợi cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc.

Quán triệt sâu sắc lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Chính phủ ta đặc biệt quan tâm chỉ đạo thực hiện tốt nhất các chính sách đối với thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ, người có công với cách mạng; huy động các nguồn lực xã hội tham gia chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ; đời sống của thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ từng bước được cải thiện, bảo đảm cho gia đình chính sách có mức sống bằng hoặc cao hơn mức trung bình của xã hội.

Với lòng quí trọng và biết ơn những người đã hy sinh xương máu vì độc lập, tự do của Tổ quốc, cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội luôn nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng và trách nhiệm của mình trong thực hiện công tác chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng; tích cực tham gia có hiệu quả các hoạt động, chương trình thể hiện đạo lý "uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa", phối hợp làm tốt công tác chính sách hậu phương quân đội; đẩy mạnh thực hiện phong trào thi đua "Quân đội chúng sức xây dựng nông thôn mới", phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa", chia sẻ, giúp đỡ gia đình chính sách, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

CẬU BÉ SỐNG SÓT TỪ NHÀ TÙ DIỆT CHỦNG KHMER ĐỎ: “NGƯỜI SINH RA TÔI LẦN THỨ HAI LÀ BỘ ĐỘI VIỆT NAM”

 

Norng Chan Phal là 1 trong 4 đứa trẻ được quân tình nguyện Việt Nam cứu khỏi nhà tù diệt chủng khi cùng binh lính Campuchia vào giải phóng thủ đô Phnom Penh. Gặp Norng Chan Phal vào tháng 9 năm 2019 tại Bảo tàng Tội ác diệt chủng Toul Sleng – trước đây là trại giam khét tiếng S-21, nơi đã diễn ra những cuộc tra tấn và hành quyết cướp đi sinh mạng của khoảng 20.000 người dân vô tội Campuchia dưới chế độ Khmer Đỏ.

 

Norng Chan Phal hồi tưởng lại ký ức kinh hoàng về những ngày bị giam cầm tại địa ngục trần gian cách đây 40 năm. Tai họa ập đến với gia đình Norng Chan Phal khi cha anh đột nhiên bị lính Pol Pot bắt vào giữa năm 1978, ít tháng sau đó chúng quay lại đưa cả gia đình Norng Chan Phal đi và cho biết sẽ được gặp cha ở nơi có cuộc sống tốt hơn. Khi chiếc xe tải chở kín người vừa đỗ trước cổng một trường học mà Khmer Đỏ biến thành nhà tù S-21, chúng xua người dân đa số là phụ nữ, trẻ em xuống xe thật nhanh, ai chậm trễ bị chúng đạp ngã lộn xuống đất.

Những tên lính hung tợn tay lăm lăm cầm gậy gỗ vung lên vụt vào đầu, vào mặt bất kỳ người nào không vì lý do gì. Máu me vương vãi khắp nơi, những tiếng kêu khóc bật lên rồi im bặt nhường chỗ cho tiếng quát tháo và tiếng gậy, tiếng roi vut vút. Norng Chan Phal và em trai bị mẹ dùng 2 tay bịt chặt miệng không cho kêu khóc vì lo sợ làm lính Pol Pot tức giận đem đi giết. Trong trại giam, do sợ hãi trước sự tàn ác của Khmer Đỏ nên ai nấy đều phải làm theo bất kỳ yêu cầu nào của chúng. Hàng ngày, chúng vào phòng giam gọi từng tốp người đi tra tấn, hành quyết.

Norng Chan Phal nhớ lại: “Bên trong căn phòng bị nhồi chặt người ở nhà tù, tôi không chứng kiến được cảnh bọn chúng giết người, nhưng tôi thấy bọn chúng bắt người đưa ra ngoài và sau đó nghe thấy những tiếng gào thét, tiếng rú của các nạn nhân vang lên rồi lịm tắt”.

Đối với Norng Chan Phal, đỉnh điểm nỗi sợ hãi là khi anh và người em trai bị lũ Pol Pot giằng ra khỏi tay mẹ để đưa sang phòng giam khác. Đó cũng là lần cuối cùng hai anh em Norng Chan Phal được nhìn thấy mẹ, họ không thể biết điều gì đã xảy đến với bà sau đó, ánh mắt của người mẹ trong giờ khắc ấy trở thành nỗi ám ảnh với họ suốt cả cuộc đời. Người em trai của Norng Chan Phal sau này không bao giờ dám quay trở lại nhà tù khi nó đã trở thành Bảo tàng Tội ác diệt chủng do bị ám ảnh bởi những ký ức hãi hùng.

May mắn đến với Norng Chan Phal khi giai đoạn đen tối trong nhà tù S-21 mới trải qua ít ngày thì bộ đội tình nguyện Việt Nam cùng lực lượng cách mạng Campuchia giải phóng Phnom Penh, lật đổ chế độ Khmer Đỏ vào ngày 7/1/1979.

Khi bộ đội Việt Nam tiến vào nhà tù, xung quanh là cảnh tượng chết chóc, u ám và tĩnh lặng như tờ, anh em Norng Chan Phal nép sát vào đống quần áo được gom lại ở một góc phòng không dám nhúc nhích, họ nhìn thấy những người lính tay cầm súng nên rất hoảng sợ.

Norng Chan Phal hồi tưởng lại: “Những người lính Việt Nam đưa chúng tôi ra khỏi đống quần áo tù nhân. Họ thấy người chúng tôi đầy vết muỗi cắn, côn trùng đốt, không được ăn mấy ngày nay rồi, thì họ đã lấy hơn một nửa túi gạo đem bên mình, nấu cơm cho chúng tôi. Đợi chúng tôi ăn xong, thì họ mới đi”.

Chỉ vào bức ảnh 4 đứa trẻ trần truồng được những người lính Việt Nam bế ra khỏi nhà tù S-21, Norng Chan Phal cho biết khi đó lũ trẻ ở trong tù không có quần áo để mặc, người dính đầy bẩn thỉu, máu me, bộ đội Việt Nam đã nhanh chóng nhấc họ lên, ôm vào lòng rồi đi qua những dãy xác người bốc mùi dọc nhà tù để thoát ra ngoài.

Nói đến đó, bất chợt ánh mắt Norng Chan Phal sáng lên, nhìn thẳng vào chúng tôi, anh quả quyết: "Người sinh ra tôi lần thứ hai là bộ đội Việt Nam. Nếu bộ đội Việt Nam tới chậm ít ngày nữa, chắc chắn 4 đứa trẻ chúng tôi không thoát khỏi số phận như hàng nghìn trẻ em xấu số khác trong nhà tù này".

Hình ảnh về người lính tình nguyện Việt Nam luôn là những kỷ niệm đẹp đối với Norng Chan Phal trong suốt quãng đời sau này. Sự ân cần, yêu thương, chăm sóc của các anh bộ đội Cụ Hồ đã giúp xoa dịu phần nào nỗi đau tột cùng mà Norng Chan Phal phải trải qua.

Nhớ lại những ngày tháng ấy, Norng Chan Phal nói: “Khi ở trại trẻ mồ côi, chúng tôi được bộ đội Việt Nam yêu thương chăm sóc, nuôi dưỡng như con vậy. Họ dạy tôi ăn nói lễ phép với người lớn, khi có thời gian rảnh là lại đến thăm tôi, đưa tôi đi chơi hoặc gửi cho tôi trái dừa... Đến những năm 80 thì quân đội Việt Nam bắt đầu rút về nước, và từ đó đến nay tôi hoàn toàn không biết tin gì về họ. Tôi hy vọng một ngày nào đó tôi được gặp lại họ”.

Nói đến đây, Norng Chan Phal đưa mắt nhìn về xa xăm. Anh cho biết ít ngày tới sẽ đưa con gái lớn của anh về Việt Nam, tham dự một sự kiện kỷ niệm ngày Campuchia được giải phóng tại TP.HCM.

Anh mong muốn sẽ được gặp lại những người lính tình nguyện Việt Nam năm nào, để được ôm thật chặt lấy họ nói lời cảm ơn. Anh cũng mong các con của mình sẽ ghi nhớ mãi mãi công ơn của bộ đội Việt Nam, những người đã đem lại hòa bình, ấm no cho đất nước Campuchia ngày nay.

BỎ TẾT TA ĐỂ ĐÓN TẾT TÂY LÀ MỞ ĐƯỜNG CHO THỨ VĂN HÓA VONG BẢN

         Còn ăn Tết ta, đất nước còn nghèo và đề nghị bỏ Tết Nguyên Đán cổ truyền của dân tộc, đó là ý tưởng của Giáo sư Võ Tòng Xuân và một số người. Mới đây, đề tài này được một trường ở Thành phố Hồ Chí Minh đưa vào đề thi môn ngữ văn học kỳ một. Xin có đôi lời như sau:

Hầu hết thông tin đều cho rằng ngày tết Nguyễn Đán có nguồn gốc từ Trung Quốc và được du nhập về Việt Nam trong 1000 năm bắc thuộc. Nhưng theo sự tích "Bánh chưng bánh dày" thì người Việt đã ăn tết từ trước thời vua Hùng, nghĩa là trước 1000 năm bắc thuộc. Khổng Tử đã viết trong cuốn Kinh Lễ: "Ta không biết Tết là gì, nghe đâu đó là tên của một ngày lễ hội lớn của bọn nguời Man, họ nhảy múa như điên, uống rượu và ăn chơi vào những ngày đó Sách Giao Chỉ Chí cũng có đoạn viết “Bọn người Giao Quận thường tập trung lại từng phường hội nhảy múa hát ca, ăn uống chơi bời trong nhiều ngày để vui mừng một mùa cấy trồng mới, không những chỉ có dân làm nông mà tất cả người nhà của Quan lang, Chúa động cũng đều tham gia lễ hội này". Như vậy có có thể nói Tết Nguyên Đán có nguồn gốc từ Việt Nam chứ không phải Trung Quốc. 

Tết Nguyên Đán ngày nay là lễ lớn ở nhiều quốc gia châu Á, nếu nói rằng đón Tết Nguyên Đán làm cho đất nước nghèo đi thì có lẽ Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc...đều là những nước nghèo đói. Nhiều người biện minh cho việc này bằng cách lấy Nhật Bản làm thước đo, bỏ Tết Nguyên Đán, đón Tết Tây. Kinh nghiệm xương máu của Nhật Bản - một quốc gia phương Đông đã từ bỏ Tết Âm - Dương để chuyển sang ăn Tết Tây. Ngày nay, nhiều người Nhật cảm thấy tiếc nuối với thứ lịch đã khiến họ mất dần bản sắc của mình, khiến họ lao vào một cuộc vật lộn không ngừng nghỉ của guồng xoay công nghiệp. Do đó, với Việt Nam, có lẽ cũng nên nhìn nhận lại quan niệm cho rằng ăn Tết Tây để “hòa nhập” với các nền văn hóa trên thế giới. Rất khó chứng minh rằng việc đổi lịch của Nhật Bản làm cho nước Nhật văn minh, giàu mạnh. Nhật Bản đổi sang dùng lịch dương năm 1873 dưới thời Minh Trị (năm Minh Trị thứ 6) nhưng để có nước Nhật như ngày nay thì còn phải đợi nước Nhật bại trận, đầu hàng phe đồng minh năm 1945 và cải cách hậu chiến (1945-1950) thành công. Không phải đổi lịch Âm sang Dương thì Nhật Bản mới phát triển.

Bỏ Tết Nguyên đán cũng là một hành động góp phần cổ súy cho việc bỏ thờ cúng tổ tiên. Người Việt Nam đại đa số là thờ "Đạo Ông Ba", thờ cúng tổ tiên dịp Tết Nguyên Đán là truyền thống đã ngấm vào máu thịt từ hàng ngàn năm lịch sử. Vì lẽ đó, chối bỏ Tết Nguyên đán cũng là một hành động góp phần cổ súy cho việc chối bỏ tổ tiên mình. Đây là một phi giá trị không thể chấp nhận được. Ở phương Tây, đa số người dân theo Kitô giáo và họ xem trọng Giáng Sinh chứ không thờ tổ tiên. Thực tế, ngày lễ Giáng Sinh (Christmas) sẽ bắt đầu một kỳ nghỉ năm mới của người phương Tây cho tới hết ngày mùng 1 tháng 1 năm mới. Như vậy, người phương Tây cũng có một kỳ nghỉ Tết kéo dài không thua kém người Việt Nam ta là mấy. Vậy nên đừng đánh đồng giữa văn hóa Đông - Tây.

Về khía cạnh tinh thần, Tết truyền thống là dịp đoàn viên của những gia đình có người thân đi xa làm việc và học tập. Đây là một dịp quan trọng bởi đời sống tình cảm gia đình luôn là nét đẹp truyền thống của người phương Đông nói chung và người Việt Nam ta nói riêng. Con người có thể nghèo về vật chất nhưng nghèo nàn về văn hóa, tinh thần thì thật thảm hại. Về khía cạnh kinh tế, Tết truyền thống là dịp kích thích tiêu dùng cực lớn, tương đương với Giáng Sinh ở các nước phương Tây. Từ các mặt hàng thực phẩm, bánh kẹo, cây cảnh, đồ trang trí... thậm chí là quần áo, giày dép, TV... Nhà nhà đều muốn sắm sửa đón mừng năm mới. Kích cầu tiêu dùng và thúc đẩy sản xuất khi đón Tết xong là một trong những bước đột phá mà Tết Nguyên Đán mang lại.

Văn hóa lai căng, vong bản ngày càng nhiều, đặc biệt là nhiều người trẻ tuổi. Đất nước nghèo hay giàu mạnh thì có nhiều yếu tố như con người, tài nguyên, địa chính trị, kinh tế và quan hệ quốc tế, sự đoàn kết cùng chung tay xây dựng đất nước chứ không phải vì đón Tết mà nghèo đi. Tây và ta khác nhau hoàn toàn về văn hóa, truyền thống. Vậy nên đừng mang Tây ra để làm thước đo chuẩn mực cho người châu Á, đặt biệt là văn hóa. Văn hóa còn thì dân tộc còn, mất văn hóa truyền thống là mất tất cả. Đừng cổ súy cho lối tư duy vong bản, me Tây./.

CÔNG LAO CỦA VIỆT NAM LÀ KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN

             Đại tướng Hun Manet, con trai Thủ tướng Hunsen đăng bài phát biểu nhân ngày lễ Chiến thắng Khmer Đỏ (07/01/1979), trong đó có đoạn: “Có nhiều người nói quân đội Việt Nam tiến vào Campuchia là ngày hận thù. Vậy ai đã giúp hàng triệu người Khmer thoát khỏi nạn diệt chủng?”.

 

Bài phát biểu ông Hun Manet cũng giải thích bốn vấn đề về lịch sử cuộc chiến chống Khmer Đỏ vốn đã và đang bị bóp méo trong những tháng ngày vừa qua.

1. Trong giai đoạn 1975-1979, chế độ Pol Pot đã tàn sát nhân dân Campuchia như thế nào?

2. Đảo chính 1963 liệu có giúp Pol Pot ngưng thảm sát người dân Campuchia hay không?

3. Tại sao không nhờ quốc tế giải cứu?

4. Vì sao người Khmer không tự đứng lên lật đổ chế độ Pol Pot?

Đại tướng Hun Manet còn nói thêm rằng, thế giới không biết đến việc người Khmer đang bị thảm sát, người dân chúng ta phải trốn chạy và không đủ mạnh để chống lại. Những người Việt Nam ở ngay cạnh chúng ta và cha tôi đã gửi lời đến họ, họ đắn đo rất nhiều nhưng vẫn đưa đôi tay giúp đỡ. Họ là hàng xóm của chúng ta, là những ân nhân của chúng ta.

ĐỪNG BIẾN MÌNH VÀ NGƯỜI KHÁC THÀNH NẠN NHÂN TIN GIẢ TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG

 

  Tin giả như một loại virus độc hại, nó xâm nhập, gây nhiễu dư luận, thậm chí làm khủng hoảng niềm tin. Trong điều kiện công nghệ mới, phương thức truyền tin, nhất là mạng xã hội phát triển sâu rộng thì tin giả càng thêm đất sống. Các thế lực xấu lợi dụng điều này để xuyên tạc, kích động chống phá hòng gây mất ổn định chính trị, xã hội, tạo cớ chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân.

  Từ clip bị làm giả gây “bão mạng”

  Vụ việc mới nhất về tin giả, tin bị bóp méo, xuyên tạc gây dư luận xấu là thông tin lan truyền trên mạng xã hội, cho rằng có “vụ việc kinh hoàng” tại Trường Quân sự Quân khu 7. Liên quan vụ việc này, ngày 14/1, Cơ quan Điều tra hình sự Quân khu 7 đã ra quyết định khởi tố hình sự vụ án đưa thông tin sai sự thật, phát tán clip cho rằng sinh viên Trường Đại học Ngoại ngữ - Tin học TP Hồ Chí Minh (HUFLIT) đang học giáo dục quốc phòng – an ninh (GDQPAN) tại Trường Quân sự Quân khu 7 nhảy lầu tự tử do bị xâm hại. Theo đó, sau khi xác định vụ việc có dấu hiệu tội phạm, Cơ quan Điều tra hình sự Quân khu 7 quyết định khởi tố vụ án hình sự tội “Đưa tin trái phép thông tin mạng máy tính” xảy ra tại Trung tâm GDQPAN, Trường Quân sự Quân khu 7.

  Trước đó, ngày 11/1, trên một số trang mạng xã hội Facebook, Zalo, Tiktok… lan truyền một đoạn clip dài 15 giây có tiếng la hét và hình ảnh nhóm người đang khiêng một phụ nữ đi vào bên trong khu nhà. Clip chia sẻ này kèm theo thông tin có nữ sinh HUFLIT bị hiếp dâm tập thể và nhảy lầu tự tử tại Trường Quân sự Quân khu 7. Sau khi thông tin này gây ồn ào mạng xã hội, Quân khu 7 đã phối hợp cùng Công an TP Hồ Chí Minh và các bên liên quan để xác minh.

Kết quả điều tra ban đầu cho thấy, 21h30 tối 10/1/2023, tại phòng của lớp 23 thuộc Đại đội 6, Tiểu đoàn 3 có hai nữ sinh là N.C.H.H và T.P.U (cùng 20 tuổi) có xảy ra tranh cãi do U nghi ngờ H lấy trộm số tiền 1,4 triệu đồng của mình. Bị bạn bè nghi ngờ, nữ sinh H khóc, la hét, bỏ chạy ra ngoài hành lang. Khi phát hiện vụ việc, cán bộ phụ trách và các bạn cùng phòng đưa H về nhà trực ban của Tiểu đoàn để trấn an tinh thần.

  Khi vụ việc xảy ra, nữ sinh viên Description: 😭.Description: 😭 (20 tuổi) ở lớp 24, Đại đội 6 đã dùng điện thoại quay clip. Sau đó, T có gửi clip cho ba người bạn. Đến chiều 11/1 thì đoạn clip nói trên lan truyền trên mạng xã hội với những thông tin bịa đặt, xuyên tạc trắng trợn. Trước tình hình trên, phía Trường Quân sự Quân khu 7, các đơn vị liên quan của Quân khu 7 phối hợp cùng Trường HUFLIT đã có văn bản báo cáo cơ quan chức năng và gặp gỡ, trao đổi với báo chí để ngăn chặn thông tin sai sự thật. Trong nhiều ngày liền, các đơn vị Quân khu 7 cùng những đơn vị liên quan đã tập trung xác minh vụ việc, có căn cứ xác định rõ: Thông tin nữ sinh bị hiếp dâm và nhảy lầu tự tử là hoàn toàn sai sự thật. Vụ việc có tính chất phức tạp, ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của các tập thể, cá nhân liên quan.

  Đáng chú ý, cơ quan chức năng xác định đoạn clip tán phát trên mạng bị lồng ghép âm thanh, hình ảnh xuyên tạc sự thật, kèm đó là các thông tin phụ hoạ, cho rằng có việc nạn nhân nhảy lầu tự tử sau khi bị “cả tiểu đội hiếp dâm”! Dù phía Trường HUFLIT và Trường Quân sự Quân khu 7 đã có thông tin với báo chí song một số cá nhân vẫn lên mạng xã hội cố tình viết bài hướng lái xuyên tạc sự thật, cho rằng vụ việc đã bị bưng bít, cổ suý dư luận “không nên tin báo cáo của nhà trường”.

  Một số bài viết dẫn ra các lý do để bôi nhọ nhà trường, cố tình lập luận sai lệch để khiến người đọc tin rằng, có “vụ việc kinh hoàng, đang bị nhà trường bưng bít”! Té nước theo mưa, nhiều trang mạng hải ngoại đẩy vụ việc lên cao trào, cổ suý tư tưởng chống Đảng, chống chế độ, cho rằng dưới “chế độ đảng trị” thì “thông tin bị lấp liếm”, đồng thời rao giảng đạo đức giả, lập những hội nhóm dưới danh nghĩa “đấu tranh bảo vệ nhân phẩm cho hai nữ sinh bị xâm hại”…

  Cảnh giác với tin giả trên không gian mạng

  Tin giả, trong từ điển tiếng Anh và truyền thông quốc tế gọi là fake news, có nghĩa là tin rác, tin giả mạo được tuyên truyền nhằm cố ý lừa bịp người khác. Ở Việt Nam, trong đời sống dân gian, loại tin đó được gọi nôm là “tin vịt”. Tin giả giờ đây không chỉ được lan truyền miệng từ người này sang người kia mà thông qua các hiệu ứng truyền thông, mạng xã hội, nó lan truyền với tốc độ chóng mặt. Vì là tin bịa đặt nên được cường điệu, hàm chứa sự ly kỳ, dễ đánh vào xúc cảm, tâm lý của những người có độ “hóng” cao.

  Tin giả được tạo dựng, tán phát liên quan đến các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... gây những hệ quả nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến đạo đức, lối sống, nhân cách của cá nhân, cộng đồng và văn hóa dân tộc cũng như thái độ, suy nghĩ, hành động của người dân. Một trong những hệ quả mà các tin tức giả gây ra là làm suy giảm niềm tin của công chúng vào các cơ quan báo chí, truyền thông, khiến cho công chúng không xác định được đâu là những nguồn tin đáng tin cậy để tiếp nhận. Trong điều kiện các thế lực thù địch, cơ hội, phản động đang triệt để lợi dụng internet để tiến hành chống phá, các tin tức, hình ảnh giả mạo được tung ra muôn hình vạn trạng. Các bằng chứng nghiên cứu khoa học cho thấy, sai lệch niềm tin do tiếp nhận tin giả giống như dịch bệnh lây lan. Khi cá nhân chia sẻ tin giả cũng đồng nghĩa với lây truyền niềm tin độc hại.

  Thời gian qua, tình trạng tán phát tin giả, tin sai sự thật trên Internet rất phức tạp. Các đối tượng triệt để lợi dụng các tính năng của mạng xã hội để tuyên truyền, vu cáo, kích động chống Đảng, Nhà nước, chính quyền các cấp, gây rối loạn về thông tin.

  Thủ đoạn phổ biến là tạo lập các tài khoản cá nhân trên mạng xã hội, mạo danh lãnh đạo Đảng, Nhà nước, người đứng đầu chính quyền các cấp, mạo danh người nổi tiếng; chỉnh sửa các thông số kỹ thuật của tập tin thời gian để đăng tải tin giả, tin sai sự thật nhằm dẫn dắt dư luận; lợi dụng các sự kiện nóng, các vấn đề thu hút sự quan tâm của xã hội để tạo dựng thông tin giả mạo, đánh lừa dư luận.

  Bên cạnh đó, xuất hiện hiện tượng một số đối tượng xấu vì động cơ vụ lợi đã tạo dựng tin giả, tin sai sự thật, tán phát trên mạng xã hội để thu hút người dùng tương tác nhằm thu về lợi ích từ việc bán hàng, ủng hộ, tài trợ bằng tiền, lợi ích vật chất... gây hoang mang dư luận. Họ tung ra tràn lan các video có nội dung nhảm nhí, giật gân trên mạng xã hội nhằm lôi kéo người xem để kiếm tiền. Một số đối tượng tìm mọi cách để gây ảnh hưởng, nổi tiếng trên mạng xã hội, sản xuất video có nội dung phản cảm, thiếu tính giáo dục, giả mạo thông tin, kích động bạo lực, bôi nhọ, nói xấu Đảng, chính quyền…

  Trên thực tế, tin giả không chỉ gây tâm lý hiếu kỳ, tò mò của độc giả mà nó còn làm suy yếu các phương tiện truyền thông. Tin giả không chỉ hướng lái sai lệch người đọc, người xem mà nhiều khi còn đánh lừa cả một số phóng viên khiến báo chí cũng trở thành nạn nhân. Tin chưa được kiểm chứng từ cá nhân trên Facebook, Zalo... nhưng có những phóng viên khi sử dụng đã thiếu kiểm chứng, biến thành sản phẩm báo chí, vô tình tiếp tay cho kẻ xấu. Do vậy, để bảo đảm tính kịp thời, hiệu quả trong nhận diện, phòng ngừa, đấu tranh hiệu quả với nạn tin giả, giảm thiểu tác động xã hội của nó, cần có sự vào cuộc mạnh mẽ, liên thông của các cơ quan chức năng. Cần phải có cơ chế phối hợp chặt chẽ nhưng linh hoạt, vận dụng nghiêm khắc chế tài, luật pháp để xử lý nghiêm mọi cá nhân, tổ chức tung tin giả.

  Cách nhận biết thông tin sai sự thật

  Một là, kiểm tra, xem xét nguồn tin

Hiện nay, người dân có nhiều kênh để tiếp nhận thông tin, từ truyền hình, radio, các trang báo giấy, báo mạng, trang thông tin điện tử, cổng thông tin của các cơ quan nhà nước… Nguồn tin còn đến từ mạng xã hội, các hội nhóm, các thông tin truyền miệng. Tất nhiên, trong hàng trăm, hàng ngàn tin tiếp nhận mỗi ngày, có tin chính xác, có tin không chính xác. Để nhận được những thông tin chính xác, chúng ta cần theo dõi tin tức từ báo chí, nhất là những tờ báo uy tín, cổng điện tử của cơ quan chức năng.

  Hai là, kiểm chứng nguồn tin

Với mỗi thông tin đăng tải trên báo chí hay trên mạng xã hội, chúng ta vẫn cần kiểm chứng xem thông tin chính xác không bằng cách đọc và tìm hiểu nguồn tin đó có được cung cấp bởi người có thẩm quyền, đúng chức năng, được phép phát ngôn cung cấp thông tin hay không. Những thông tin trong bài viết có nêu rõ tên người, địa phương, thời gian… không. Với những tin chung chung, không rõ tên nhân vật, địa danh cụ thể, chúng ta cần kiểm chứng lại. Tin giả thường không được chú trọng về cấu trúc ngữ pháp, thể thức văn bản, dễ có lỗi chính tả và ngữ pháp, không thống nhất. Về các luận cứ, luận chứng trong bài viết, thông thường các tin giả được tạo ra được dựa trên một câu chuyện, tình tiết có thực nhưng được làm giả ở những nội dung quan trọng nhất. Ngoài ra, cần đọc kỹ nội dung xem thông tin đó là tin tức thật hay trò đùa của người đăng.

  Ba là, kiểm tra lại thông tin, hình ảnh minh họa

Tin giả không chỉ về chữ viết mà còn là các hình ảnh. Người dùng mạng xã hội luôn nghĩ, hình ảnh, nhất là video là minh chứng rõ ràng nhất và tin ngay những thông tin trong hình ảnh đó. Nhưng thực sự, những hình ảnh có thể bị làm giả, bị cắt ghép, chỉnh sửa theo từng dụng ý khác nhau của người đăng tải thông tin. Hình ảnh sử dụng trong bài viết đa phần là ảnh trên mạng hoặc được chỉnh sửa cho phù hợp với nội dung nguồn tin. Cần kiểm tra xem ảnh có tồn tại trên không gian mạng thông qua tính năng “Search Google for image”.

  Trước mỗi thông tin, hình ảnh có nội dung xấu lan truyền, cần tỉnh táo, suy nghĩ xem những tin tức, hình ảnh đó khởi nguồn thế nào, ai phát ra, liệu có đủ khả năng tin cậy? Nếu những tin tức đó mang đến suy nghĩ tiêu cực, cần phải suy xét thận trọng, tránh việc ấn like hay chia sẻ, bình luận tạo hiệu ứng lan truyền tin giả, độc hại. Phải cẩn trọng khi tiếp nhận thông tin trên không gian mạng, nhất là thông tin được chia sẻ bởi mạng xã hội, chủ thể không rõ nguồn gốc, không xác thực. Đặc biệt, không chia sẻ nguồn tin phát ra từ trang mạng của những cá nhân, tổ chức thường xuyên đưa tin có nội dung tiêu cực, sai trái, phỉ báng nhà nước, cộng đồng.

ĐẤU TRANH CHỐNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM KHÔNG QUAN TÂM BẢO VỆ LỢI ÍCH QUỐC GIA, LÀM THẤT BẠI CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH”

           Dù thời cuộc có nhiều biến động và thế giới có nhiều đổi thay, nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tuyệt đối trung thành và làm hết sức mình để bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân; đồng thời không ngừng củng cố và nâng cao sức mạnh, vị thế, uy tín của đất nước Việt Nam trên trường quốc tế. Vì thế, mọi sự xuyên tạc Đảng Cộng sản Việt Nam không quan tâm bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc đều không có giá trị và bị thực tiễn bác bỏ.

          Những luận điệu xuyên tạc ác ý, thâm độc

          Trong các thời kỳ cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích của nhân dân. Trong các cuộc kháng chiến chống thực dân đế quốc xâm lược, Đảng ta xác định mục tiêu cao nhất là đấu tranh giành độc lập dân tộc, giữ vững chủ quyền, thống nhất đất nước là lợi ích tối cao của toàn dân tộc. Trong thời kỳ hòa bình xây dựng đất nước, lợi ích quốc gia, dân tộc được thể hiện bao trùm ở phương hướng-mục tiêu “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa” gắn liền với thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

          Tuy vậy, thời gian qua, trên một số diễn đàn, trên mạng xã hội, trên trang điện tử tiếng Việt của một số cơ quan báo chí, truyền thông nước ngoài thiếu thiện chí với Việt Nam đã xuất hiện những luận điệu sai trái, xuyên tạc Đảng và Nhà nước Việt Nam không quan tâm đến lợi ích chính đáng của nhân dân và dân tộc Việt Nam. Họ cho rằng, “Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ đại diện cho lợi ích của một nhóm thiểu số tinh hoa, chứ không đại diện cho lợi ích của quốc gia, lợi ích dân tộc”; “việc Đảng thừa nhận sự tha hóa, biến chất, tham nhũng trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chứng tỏ Đảng không đủ tư cách để đại diện cho toàn dân để bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc”. Có ý kiến còn bình luận “việc Đảng kết hợp mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là siêu hình, trái quy luật và xu thế phát triển của thế giới”. Lại có ý kiến đưa ra lý lẽ lập lờ rằng, “nội hàm bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc mà Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là mông lung, khó khả thi, vì bảo vệ Tổ quốc chỉ là bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chủ quyền quốc gia, chứ không phải là bảo vệ một đảng phái, một chế độ chính trị nào”. Ác ý và thâm độc hơn, có ý kiến đổ tội cho “chế độ độc đảng lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam khiến Việt Nam hiện vẫn là một quốc gia nghèo nàn, lạc hậu” (?!).

          Những ý kiến nêu trên, nếu không cố tình ngụy tạo thông tin, đánh tráo khái niệm, đánh đồng giữa hiện tượng và bản chất; thì cũng là cái nhìn thiếu khách quan, toàn diện theo kiểu “thầy bói xem voi”, chỉ nhìn cây mà không thấy rừng, thậm chí lồng ghép những lời đơm đặt, xuyên tạc nhằm chống phá, hạ bệ, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

          Lợi ích của Đảng luôn thống nhất với lợi ích của Tổ quốc và nhân dân

          Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, Đảng ta không có lợi ích gì khác”, với tư cách là “đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam”, trước sau như một, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tuyệt đối trung thành và làm hết sức mình để bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân; đồng thời không ngừng củng cố và nâng cao sức mạnh, vị thế, uy tín của đất nước Việt Nam trên trường quốc tế.

          Việc Đảng ta luôn trung thành và bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc bởi trước hết, Đảng ta là con nòi của dân tộc Việt Nam. Lịch sử hơn 90 năm qua đã khẳng định, ở Việt Nam, không lực lượng chính trị nào có đủ uy tín, bản lĩnh, trí tuệ, năng lực lãnh đạo như Đảng Cộng sản Việt Nam. Bởi ở nước ta từng xuất hiện một số tổ chức đảng khác nhưng vì không đại diện cho lợi ích của toàn dân tộc, thậm chí có tổ chức đảng còn phản bội, đi ngược lại lợi ích của dân tộc nên tự đào thải và bị lịch sử loại bỏ.

          Nhờ lãnh đạo toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử sau hơn 3 thập niên đổi mới mà Đảng ta đã chứng minh được vị thế, năng lực cầm quyền của mình, từ đó thuyết phục được nhân dân, lãnh đạo nhân dân thực hiện mục tiêu, lý tưởng cao đẹp của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Lợi ích của Đảng thống nhất với lợi ích của toàn dân tộc, của nhân dân, của quốc gia-đó là bằng chứng sinh động thể hiện “ý Đảng, lòng dân” hòa quyện, gắn bó chặt chẽ với nhau. Đó cũng là lý do căn cốt, là điểm tựa niềm tin lớn nhất mà nhân dân trao quyền, ủy quyền lãnh đạo của mình cho Đảng Cộng sản Việt Nam.

          Nói về vai trò của Đảng trong bảo vệ, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc không thể không nhắc đến những thành quả to lớn trong công cuộc đổi mới đất nước. Với mức tăng GDP hằng năm trung bình khoảng 7% trong hơn 35 năm qua, hiện nay Việt Nam đứng trong top 40 nền kinh tế có quy mô GDP lớn nhất thế giới, top 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất. Tính đến năm 2022, quy mô nền kinh tế ước đạt gần 400 tỷ USD; thu nhập bình quân đầu người đạt hơn 4.000USD; quy mô thương mại khoảng 750 tỷ USD, thuộc nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại quốc tế. Việt Nam là nơi hội tụ của hàng vạn nhà đầu tư đến từ 140 quốc gia, vùng lãnh thổ, với gần 35.000 dự án FDI đang hoạt động có tổng vốn đầu tư gần 430 tỷ USD. Không chỉ vậy, Việt Nam thuộc nhóm nước đạt mức cao chỉ số phát triển con người (HDI). Năm 2020, tỷ lệ nghèo đa chiều theo chuẩn quốc tế giảm còn 4,8% (so với 9,9% năm 2016). Việt Nam đã hoàn thành trước thời hạn nhiều Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ MDG-2015 và đang nỗ lực thực hiện Mục tiêu phát triển bền vững SDG-2030 của Liên hợp quốc. Nhiều quốc gia trên thế giới coi Việt Nam là một hình mẫu đáng tham khảo, học hỏi kinh nghiệm về việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo đảm công bằng, tiến bộ xã hội.

          Vì là một đảng “tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính” nên trong quá trình lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tự đổi mới, tự chỉnh đốn để không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu để ngang tầm với sứ mệnh mà nhân dân giao phó. Sai đâu sửa đấy, dám nhìn thẳng vào khuyết điểm, thừa nhận khuyết điểm và kiên quyết khắc phục, sửa chữa khuyết điểm không chỉ là dũng khí, bản lĩnh của một đảng mác xít chân chính mà còn thể hiện tinh thần cầu thị của Đảng để không phụ lòng tin của nhân dân và dân tộc. Việc Đảng ta kịp thời sửa sai trong chủ trương thực hiện cải cách ruộng đất những năm 50 của thế kỷ trước; kiên quyết từ bỏ chế độ tập trung quan liêu bao cấp và thực hiện đường lối đổi mới toàn diện vào giữa thập niên 80 của thế kỷ trước và những năm gần đây thực hiện quyết liệt việc thanh lọc, xử lý nghiêm khắc những cán bộ, đảng viên sai phạm để làm trong sạch Đảng cũng không ngoài mục đích bảo vệ những lợi ích chính đáng của đại đa số nhân dân, bảo vệ sự liêm chính của quốc gia, bảo vệ những thành quả cách mạng của toàn thể dân tộc Việt Nam đã chung tay góp sức giành được trong gần 80 năm qua.

          Giải quyết đúng đắn mối quan hệ lợi ích quốc gia và lợi ích quốc tế chân chính

          Từ bản lĩnh, trí tuệ, tầm nhìn đổi mới mạnh mẽ được Đảng ta khởi xướng từ năm 1986, với sự nỗ lực bền bỉ của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, đến nay, “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế như ngày nay” như Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định.

          Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động phức tạp và diễn biến khó lường hiện nay, Đảng ta vẫn kiên định với phương châm bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc. Bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc ở Việt Nam không phải là lợi ích quốc gia, dân tộc hẹp hòi, cực đoan như có kẻ từng rêu rao, xuyên tạc. Bởi lẽ, những năm qua, Đảng ta đề ra chủ trương, đường lối và Nhà nước ban hành chính sách, pháp luật luôn xuất phát từ lợi ích quốc gia, dân tộc, đặt trong mối quan hệ hợp tác cùng phát triển, tôn trọng lợi ích chính đáng của các quốc gia và cộng đồng quốc tế. Mặt khác, trong quan hệ đối ngoại, Đảng và Nhà nước ta đã quán triệt, thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi, với phương châm “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Phương châm này thể hiện nhận thức nhất quán của Đảng là giải quyết hài hòa giữa lợi ích của dân tộc và lợi ích chung của nhân loại, giữa lợi ích quốc gia và lợi ích quốc tế chân chính của giai cấp công nhân.

          Những năm gần đây, uy tín của Việt Nam không ngừng được củng cố, tăng cường trên trường quốc tế khi được tín nhiệm bầu vào các cơ quan quan trọng của Liên hợp quốc, như: Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014-2016, Ủy ban Di sản thế giới của UNESCO nhiệm kỳ 2013-2017, Hội đồng kinh tế-xã hội của Liên hợp quốc (ECOSOC) nhiệm kỳ 2016-2018. Năm 2020, Việt Nam đồng thời đảm nhiệm 3 trọng trách: Ủy viên không Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN và Chủ tịch AIPA. Từ một nước gần như bị bế quan tỏa cảng, sau gần 4 thập niên, đến nay, Việt Nam đã có thiết lập quan hệ ngoại giao với 190 quốc gia, trong đó thiết lập quan hệ ổn định lâu dài với 30 đối tác chiến lược và toàn diện. Đặc biệt, các chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam đã tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình (PKO) đạt nhiều kết quả tích cực, được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.

          Như vậy, từ những cơ sở, thành quả nêu trên, có thể khẳng định rằng, dù thời cuộc có nhiều biến động, thế giới có nhiều đổi thay nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam đã, đang là lực lượng chính trị duy nhất có đủ vị thế, trí tuệ, năng lực, uy tín để lãnh đạo nhân dân Việt Nam thực hiện toàn diện công cuộc đổi mới, bảo vệ độc lập chủ quyền và xây dựng, phát triển đất nước theo con đường XHCN, đồng thời đó cũng là bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc. Vì thế, mọi sự xuyên tạc Đảng Cộng sản Việt Nam không quan tâm bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc đều không có giá trị và bị thực tiễn bác bỏ.

"CHÁY NHÀ SẼ RA MẶT CHUỘT"!

 

          Có một con chuột bị mèo đuổi, vô tình chui vào trong tượng Phật trên chùa và làm tổ ở đó...

          Từ ngày chui vào trong tượng Phật, cuộc sống của chuột ta vô cùng no đủ. Nó luôn được ăn thỏa thích những đồ lễ vật mà người dân mang đến cúng bái. Thêm nữa, người nào đến trước tượng Phật của toàn phủ phục, nên con chuột tự thấy mình cũng oai lắm. Nó thoải mái ăn ở, thậm chí còn tự do phóng uế lung tung…

          Mỗi khi người dân đến thắp hương khấu đầu, con chuột kia nhìn khói hương nghi ngút từ từ bay lên, cười thầm: “Đúng là những kẻ ngu ngốc, chẳng ai bắt mà cũng quỳ cũng lạy! Bây giờ ta mới biết mình cũng oai phết, đến loài người còn bái lạy ta, mà bấy lâu nay sao ta cứ phải sợ mèo nhỉ!”.

          Lâu ngày, sống cùng tượng Phật ở trên cao, thấy người nào đến thắp hương cũng chắp tay thành kính và quỳ lạy như thế, chuột cũng thấy mình cao quý và tôn kính như… Phật.

          Bỗng một hôm, có người cắm bó hương to, sơ ý để bùng cháy... Nóng và khói quá, con chuột bò vội ra ngoài, thì bị con mèo đói vồ được. Chuột ta bèn vênh váo kêu lên:

          - “Này mèo! Nhà người không thể ăn thịt ta được, hãy quỳ xuống thành kính bái lạy đi, rồi mang thức ăn lại đây… Ta là Phật đấy!”

Mèo cười to:

          - “Những người quỳ lạy mày là vì vị trí mà mày đang chiếm đoạt, chứ không phải vì bản thân mày cao quý, quyền cao chức trọng gì đâu. Giờ thì mày tới số rồi, con chuột ngu ngốc!

          Trong cuộc sống, không ít những kẻ nhờ thủ đoạn, hoặc do may mắn, bỗng ngồi vào một ví trí nào đó, thấy những người xung quanh đều xum xoe nịnh nọt, bổng lộc tự đến đầy nhà… thì tưởng mình là tài năng, cao quý và oai vệ lắm.

Họ giống như con chuột bỗng chui vào tượng Phật, ngộ nhận về mình; không biết chỉ là nhờ vị trí cái ghế ngồi mà họ đang may mắn tạm thời nắm giữ. Họ càng không lường được rằng, rất có thể tới một ngày... “Cháy nhà sẽ ra mặt chuột"!

          Hiện nay, BCT, BCH TW đang ra sức phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong bộ máy công quyền, hy vọng thời gian tới sẽ không có con chuột nào chui vào tượng Phật!

TẠI SAO MỸ VÀ CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH LẠI ĐẨY MẠNH XUYÊN TẠC LỊCH SỬ CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC CỦA NHÂN DÂN TA?

           Gần đây trên MXH xuất hiện nhiều bài viết tẩy não người Việt Nam (VN) về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước rất tinh vi, xảo trá. Một mặt, họ cố tình bôi nhọ tính chính nghĩa trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại này, mặt khác chúng cố gắng xuyên tạc bản chất chế độ tay sai bán nước, rằng "VN đã đuổi đi 2 nền văn minh Pháp - Mỹ" hay "VN Cộng hòa (ngụy - VNCH) là một chính thể, quốc gia đã tồn tại ở miền Nam", hay "gọi ngụy quyền Sài Gòn là miệt thị"... thực tế đây là một chiến dịch “lật sử” nhằm rửa mặt cho ngụy, rửa nhục cho Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược VN bằng một dự án quy mô lớn của CIA với tên gọi "Dự án tưởng niệm chiến tranh VN" do Obama phát động bởi 1 đạo luật, khởi động năm 2012. Dự án này chia 3 giai đoạn:

          - Giai đoạn 1 ( 2012-2014): Tổ chức các hoạt động tưởng niệm ở Mỹ.

          - Giai đoạn 2 (2014-2017): Xây dựng chân rết ở Mỹ và các quốc gia khắp Thế giới (tất nhiên VN là chính).

          - Giai đoạn 3 (2017-2025): Là giai đoạn cao điểm. Nội dung chính là nhằm tôn vinh lính Mỹ, ngụy; xoá bỏ "hội chứng VN", sửa đổi lịch sử, tẩy xoá sự thật cuộc chiến ở VN.

          Tiền ngân sách ban đầu là 5 triệu đô/năm, sau nâng lên 180 triệu/13 năm nhưng thực tế số tiền còn lớn hơn nhiều và dự án Obama đang trong giai đoạn 3, sẽ kết thúc vào năm 2025. Đó là lý do tại sao nhiều kẻ điên cuồng xuyên tạc lịch sử, thậm chí xuyên tạc cả Nghị quyết 15 của BCT về những nhiệm vụ cơ bản của Cách mạng miền Nam (1959) và hình ảnh Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước... Thế mới hiểu chúng nham hiểm mức nào!

          Ai cũng biết chế độ ngụy quyền Sài Gòn là chế độ bán nước, do Mỹ lập ra để cai trị miền Nam (VN) giai đoạn 1954-1975, một chế độ tàn ác nhất lúc bấy giờ. Chỉ cần gõ trên Google "tội ác Mỹ - ngụy" sẽ cho ta rất nhiều kết quả về tội ác của chúng. Tuy nhiên gần đây 1 số bài viết trên Google cũng không thấy xuất hiện nữa, thay vào đó là chúng tăng tần suất xuyên tạc lịch sử cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước trên Youtube, facebook...

          Chúng ta đừng bao giờ quên những lời người Mỹ nói: "Hai mươi năm sau chúng ta sẽ trở lại VN. Không phải với xe tăng, đại bác, chiến hạm hay pháo đài bay mà bằng xấp đô la. Khi đó, cờ Mỹ sẽ bay không chỉ ở Sài Gòn mà còn hiên ngang giữa lòng Hà Nội. Những gì bom đạn không thể làm được thì sức mạnh của đồng đô la sẽ giải quyết. Người VN sẽ đón chúng ta như những vị ân nhân"...

          Chính trong tuyên bố bình thường hoá quan hệ Hoa Kỳ - VN (11/7/1995), Tổng thống Bill Clinton nhấn mạnh: “I believe normalization and increased contact between Americans and Vietnamese will advance the cause of freedom in Vietnam just as it did in Eastern Europe and the former Soviet Union. I strongly believe that engaging the Vietnamese on the broad economic front of economic reform and the broad front of democratic reform will help to honor the sacrifice of those who fought for freedom's sake in Vietnam”. Nghĩa là mục tiêu bình thường hoá quan hệ của Mỹ là để thay đổi chế độ tại VN “như nó đã thành công tại Liên Xô và Đông Âu”.

          Và đó là mục tiêu mà Washington không bao giờ từ bỏ với việc đầu tiên là tẩy xóa sự thật cuộc chiến tranh xâm lược VN của Mỹ, bằng những đồng USD dơ bẩn đẩy mạnh xuyên tạc sự thật lịch sử cuộc kháng chiến cứu nước vĩ đại của dân tộc ta... Để thực hiện việc “lật sử” hiệu quả mà không tốn kém, bọn chúng đã lôi kéo những người tham gia biên soạn, thẩm định cuốn sử và sách giáo khoa, tài trợ cho việc giáo dục, đào tạo… (Đại học Fulbright ở VN đang là cái ổ lật sử & rửa mặt cho Mỹ - ngụy)!

          Hơn lúc nào hết, mỗi người dân Việt Nam cần tỉnh táo, cảnh giác, kiên quyết đấu tranh vạch trần, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, "lật sử" của kẻ thù./.

CHỐNG "GIẶC NỘI XÂM": CÀNG KHÓ KHĂN, THỬ THÁCH CÀNG TRÁCH NHIỆM, KIÊN CƯỜNG

           Xuyên qua “một chuỗi hiện tượng” là bản chất của vấn đề cần nhận diện đúng, thực hiện nghiêm

          Hiện nay, do nhiều nguyên nhân khác nhau, một bộ phận người dân đang băn khoăn, lo lắng về sự chống phá của “giặc nội xâm” và những khó khăn của đời sống, tương lai của mình; có những kiến nghị với Đảng, Nhà nước, chính quyền địa phương; thậm chí có đơn thư khiếu kiện vượt cấp. Đây là một thực tế khách quan, thời nào cũng có, ở đất nước nước nào cũng có; nó phản ánh tính phong phú của tồn tại xã hội và sự phức tạp của tâm lý, ý thức xã hội.

          Ở nước ta, vin vào cái cớ này, các thế lực thù địch, phản động triệt để lợi dụng internet, mạng xã hội, viết bài, tung tin xấu, độc nhằm thổi phồng hạn chế, khuyết điểm, khuếch đại thành “nguy cơ mất nước” để kích động những phần tử bất mãn, cơ hội chính trị và những người dân thiếu hiểu biết có thái độ, hành vi chống phá Đảng, Nhà nước, gây khó khăn cho chính quyền địa phương. Không ít người đã theo đuôi kẻ xấu, tin theo các trào lưu dân tuý, chủ nghĩa bảo hộ ở phương Tây để chê bai, bài xích Tổ quốc – nơi mình đã sinh ra và lớn lên...

          Như “đổ thêm dầu vào lửa”, một số ít cán bộ, đảng viên do nhận thức chưa đầy đủ về tình hình, hiểu biết lệch lạc về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; quy định của địa phương, đã giải thích “không đến nơi đến chốn” nhiều vấn đề, làm người dân tin theo, hiểu sai, làm sai; thậm chí còn tỏ ra bức xúc, mâu thuẫn, bất đồng với cấp ủy, tổ chức đảng và chính quyền về những vấn đề liên quan trực tiếp đến lợi ích của bản thân, gia đình, dòng tộc, nhất là những vấn đề về đất đai, môi sinh, môi trường, an toàn thực phẩm, tham nhũng, tiêu cực, tệ nạn xã hội...nên bức xúc, đã thiếu kiềm chế, có những hành vi “vượt quá giới hạn” cho phép, vi phạm quy định những điều đảng viên không được làm, thậm chí rơi vào vòng lao lý, phạm pháp; làm xấu hình ảnh người cán bộ, đảng viên.

          Người dân ứng xử sai trái, lệch lạc là điều đáng trách nhưng cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật nhà nước là điều không thể chấp nhận. Việc làm sai trái của họ đã châm ngòi nổ, kích động một số phần tử bất mãn, cơ hội chính trị kết bè, kéo cánh chống phá Đảng, Nhà nước. Họ đã vô tình đứng về phía địch – “giặc nội xâm”, gây rối và làm mất ổn định chính trị ở địa phương; chống đối người thi hành công vụ trong giải quyết những vấn đề dân sinh, dân chủ, xây dựng nông thôn mới...

          Điều không thể chấp nhận, không được lùi bước trước thái độ, hành vi sai trái của một số cán bộ, đảng viên và người dân là đúng đối với lực lượng thi hành công vụ, cần phát huy nhưng cần nhận diện cho rõ hơn những biểu hiện sai trái, nhất là “tính hai mặt”, “sự lập lờ nước đôi” trong lối sống, sinh hoạt của nhóm đối tượng này để vạch trần sự giả dối, lừa my; có biện pháp đấu tranh phòng, chống hiệu quả hơn. Tính “hai mặt của một vấn đề” cần nhìn nhận, đánh giá khách quan

          Những người này “khéo che đậy khuyết điểm”, thường công khai sự tin tưởng, lòng trung thành với Đảng; miệng thì nói làm theo nghị quyết của Đảng, “sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” nhưng trên thực tế việc làm thì hoàn toàn trái ngược, luôn “ném đá giấu tay”, “che giấu hành vi chống phá Đảng”. Biểu hiện của nó là: Trong hội nghị thì cái gì cũng đồng ý, nhất trí cao với nghị quyết, tán thành với kết luận của bí thư, cấp ủy nhưng ra khỏi hội nghị lại nói theo cách khác, phát ngôn thiếu chuẩn mực, thậm chí quá đà, “phát tán”, “phao tin đồn nhảm” sai tinh thần nghị quyết của Đảng.

          Những cán bộ, đảng viên thuộc diện này chỉ lấy nghị quyết, cấp ủy, chi bộ, đảng viên làm “bình phong”, ngụy trang, che đậy “điều xấu bên trong bản thân”; bề ngoài thì tỏ vẻ trung thành, kiên định, “làm gương” tuân thủ hiến pháp, pháp luật; trước mặt thì nói tốt nhưng sau lưng thì làm ngược lại. Họ không thể hiện rõ chính kiến, trước các vấn đề phức tạp thường “cười xòa”, “ba phải”, uốn éo để “đi giữa hai làn đạn”, “tránh bị thương”, “không tổn hại” nhưng sau đó lại chơi trò “rỉ tai”, “bắn tin ủng hộ” nhằm kích động, gây chia rẽ, tạo mâu thuẫn trong nội bộ theo hướng có lợi cho mình. Họ dùng nghị quyết, chủ trương đường lối của Đảng làm “đồ trang sức”; không muốn đấu tranh chống quan điểm sai trái, phòng, chống “diễn biến hoà bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ, rất ngại và sợ liên lụy đến bản thân, gia đình nên chỉ “ngậm miệng ăn tiền”, sống theo kiểu “ngươi không đụng đến ta, ta không đụng đến ngươi”.

          Sự nguy hiểm của loại “giặc nội xâm” này nằm ở chỗ không tin tưởng ai; sự chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ cũng nằm ở chỗ đó, chúng ta cần phải vạch mặt, chỉ tên các thói hư, tật xấu này; kiên quyết không để những phần tử cơ hội chính trị tồn tại trong tổ chức đảng, chính quyền nhà nước.

          Rõ ràng là “hoạt động ngầm và sâu” của đối tượng này rất khó phát hiện. Tuy nhiên, “cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra”. Tại mắt nhân dân luôn nhìn xa trông rộng, rất tinh tường. Trí tuệ tập thể Đảng minh triết và sáng suốt. Những biểu hiện sai trái dù có che đậy kỹ đến mức nào sớm hay muộn cũng phơi bày, lộ diện, được đưa ra ánh sáng; không còn là hiện tượng cá biệt, “bí mật”. Nhìn lại một số cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên bị xử lý kỷ luật đảng thì thấy rất rõ “cái đuôi của lũ sâu mọt, đồng minh của “giặc nội xâm”đã bị phanh phui – đối tượng chúng ta phải quyết tâm chiến đấu, loại bỏ nó khỏi công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

          Cùng với đó, cần nhận diện rõ hơn và quản lý chặt chẽ những đối tượng bất mãn, bất đồng chính kiến với chính quyền địa phương vì đối tượng này đang được các thế lực thù địch “đặc biệt quan tâm”, lợi dụng, khai thác, mua chuộc, “kết bè kéo cánh”, “kết đảng phái” để chống phá Đảng, Nhà nước, phá vỡ môi trường hòa bình, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở địa phương. Đây là thực tế sinh động đã và đang diễn ra ở các “điểm nóng”, làm cho cấp ủy, chính quyền địa phương rất khó tập hợp lực lượng, phát huy sức mạnh tập thể, nhân tố con người trong xây dựng “thế trận lòng dân”, xây dựng địa phương giầu đẹp, văn minh.

Vì sao các tệ nạn xã hội ở nước ta vẫn còn nặng; vì sao đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, chống “giặc nội xâm” diễn ra quyết liệt như vậy nhưng vẫn chưa đạt được kết quả như mong muốn? Một trong nhưng lý do cơ bản là: hiện nay ở nước ta, một số cán bộ có chức, có quyền vẫn còn tồn tại “tư duy nhiệm kỳ”, có biểu hiện sa vào chủ nghĩa cá nhân với nhiều hành vi thu vén lợi ích cho bản thân trước khi “hạ cánh”, nghỉ hưu nên sinh ra nhiều mưu kế lừa bịp, giấu kín, khó phát hiện.

          Cùng với đó, tiến độ đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực còn chậm, vẫn còn hiện tượng “trên nóng, dưới lạnh”. Tham nhũng, tiêu cực vẫn được xem là “quốc nạn” với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt; đang là mặt trận nóng bỏng hiện nay được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị quan tâm. Bản thân nó chứa đựng nhiều mối quan hệ “nhì nhằng”, có nhiều yếu tố phức tạp, được che chắn tinh vi. Việc phanh phui, vạch trần bản chất của nó cần có thời gian để điều tra, truy xét, làm rõ sự tình, đúng người, đúng việc, đúng tội.

          Chống tham nhũng, tiêu cực không thể nóng vội; giải quyết một lần là xong, cứ mong muốn là làm ngay được. Đây là cuộc “chiến đấu thầm lặng nhưng vô cùng quyết liệt trong thời bình”, trong chống “giặc nội xâm”, chúng ta phải đối mặt với những đối tượng đã từng là đồng chí, đồng đội, hoạt động trong đội ngũ của mình. Vì vậy, cần kiên trì, nhẫn nại, cần có thời gian với sự tiếp tục vào cuộc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị với tinh thần mới, sức mạnh mới: càng khó khăn, thử thách càng trách nhiệm, kiên cường, càng bản lĩnh và nâng cao ý chí quyết tâm, không được ngưng nghỉ, không bỏ cuộc, phải làm đến cùng; phải bảo vệ chân lý, lẽ phải, niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ.

          Chủ trương một, quyết tâm mười, biện pháp phải một trăm một con đường đi đúng định hướng Để an dân, yên dân, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc

Việt Nam XHCN trong thời kỳ mới cần quyết liệt: Phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân”, quan tâm hơn nữa đến công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, phát triển lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta để bổ sung, hoàn thiện lý luận về đường lối đổi mới đất nước. Tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên mẫu mực tiêu biểu về đạo đức cách mạng: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, một lòng vì nước vì dân; thực hiện nghiêm Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25-10-2021 về những điều đảng viên không được làm; đặc biệt coi trọng công tác phát triển đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ mới, vừa hồng vừa chuyên.

          Phát huy tốt dân chủ XHCN và thực hiện tốt lời dạy của Bác Hồ: Kính trọng dân và phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng”; thực hiện tốt phản biện xã hội, lắng nghe ý kiến của nhân dân. Đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh gắn với giải quyết công bằng xã hội, thực hiện tốt việc xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh. Giải quyết tốt các mâu thuẫn, bất đồng, bức xúc trong xã hội, các vụ tranh chấp, khiếu kiện kéo dài, không để lây lan ra diện rộng, trở thành “điểm nóng.

          Kiên quyết chống mọi hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, lợi ích và thân thể công dân, lợi ích của quốc gia - dân tộc. Luôn đề cao cảnh giác, tiếp tục đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn, hoạt động “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang. Thực hiện tốt tư tưởng chỉ đạo: Chủ trương một quyết tâm phải mười, biện pháp phải một trăm...

          Đây là nhiệm vụ mang tính sống còn, rất cấp bách trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và bảo vệ chế độ XHCN, lợi ích quốc gia – dân tộc. Đảng rất cần sự tiếp tục đồng hành, cùng vào cuộc của toàn dân và toàn quân, thực hiện tốt ý kiến chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”, nhất định chúng ta sẽ “quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, chiến thắng “giặc nội xâm”, hoàn thành tốt nhiệm vụ xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra./.

CHỨNG BỆNH “ÁI KỶ CHÍNH TRỊ”

  

          "Ái kỷ chính trị" là thói lố tự đánh bóng, khoe mẽ, thổi phồng về bản thân vì những ý đồ chính trị, từ đó đẻ ra đủ loại những thói hư, tật xấu tệ hại khác, như tính tham lam, đói khát danh vọng, dối trá, thói ghen tị, xu nịnh, kèn cựa, vụ lợi, tham ô, lãng phí...

          Bắt chứng bệnh ái kỷ chính trị không khó, do thói hợm hĩnh, hám danh, “trưởng giả học làm sang”..., nên dù che giấu tinh vi đến đâu vẫn có ngày bị phơi bày, với cả mớ những kiểu thức rởm đời. Có kẻ vô sỉ hả hê lấy mồ hôi, nước mắt của người khác làm thứ màu tô vẽ vào bảng thành tích của mình, bằng tranh công đổ tội, chặn bát chèn đũa đồng nghiệp; có người huênh hoang tự cao tự đại khoe khoang về mình, thuyết giảng đao to búa lớn cả ngày không chán, vừa đôm đốp vỗ ngực tự thổi ta lên chín tầng mây, vừa vẫn không quên dùng thủ đoạn dìm ngay người khác xuống; có người “đánh bóng chuyên nghiệp” khi dùng các phương tiện truyền thông, mạng xã hội để khoe mẽ bản thân bằng những hình ảnh hào nhoáng nhưng đầy thói giả dối, rỗng tuếch, lố bịch, thậm chí lươn lẹo “mớm cung”, mượn tay kẻ khác để tâng hết lời về mình, hòng bịp mắt thiên hạ, dọn đường cho việc tranh quyền đoạt chức về sau; nhiều người tài hèn, đức mọn, nhưng háo danh tìm mọi cách gắn mác học hàm, học vị cho kỳ được, toan tính leo lên ông nọ bà kia; có kẻ dù đã vướng vào vòng lao lý thì vẫn cố vươn khỏi song sắt nhà tù để dùng đám bồi bút bênh vực giảm tội, không nghĩ tới quá khứ táng tận lương tâm bòn rút không tiếc của cải của nhân dân...

          Kẻ “ái kỷ chính trị” luôn tìm thấy cảm giác thỏa mãn bản thân mình khi vượt được người khác, bằng mọi giá. Khi tài hèn, tất phải dùng thủ đoạn. Người có chút tài năng thì cũng bị những huyễn hoặc, ảo vọng về bản thân và ham hố danh vọng làm mờ mắt, sinh ra hành động khuất tất, thậm chí bất nhân. Song, dù bôi son trát phấn hào nhoáng thế nào thì chung quy vẫn khó lòng lấy hình thức mà lấp đi nội dung, lấy mớ hổ lốn danh hiệu, bằng khen, “công trạng” mà che đậy đi đống rỗng tuếch bên trong.

          Xưa - nay, Đông - Tây, nhìn khắp bốn bể đều thấy, một tổ chức do yếu kém mà dung túng cho nhiều kẻ “ái kỷ chính trị” thì lâu ngày cũng thành một tập thể ái kỷ chính trị, nơi thói xu nịnh, giả dối, rởm đời, bệnh hình thức, đấu đá, chạy danh hiệu, tự mãn lên ngôi; ngại, tránh những cách nói thẳng, nói ngay, dần mất đi sự công bằng, người tài, người hay ngoảnh mặt - tập thể đó tất đến lúc mạt thời. Nguy hại hơn là cả một đất nước, một dân tộc “ái kỷ”, bám víu vào những thành tích nhất thời, chuộng hư danh, thiếu thực lực, mà hàm hồ, thái quá trong ca tụng, ngủ mê với ảo vọng, khiến tinh thần quốc gia bạc nhược.

          Người mắc “chứng ái kỷ” nặng thường “không biết mình là ai”, đặt bản thân lên trên hết thảy, không chịu tu dưỡng, nên thiếu sự thấu cảm và đối ác với người khác, mất khả năng kiểm soát ham muốn và dị ứng với sự ăn năn, hối lỗi, do đó khó trông chờ vào sự tự sám hối. “Vực thẳm dễ lấp, nhưng túi tham khó đầy”.

          Đây là chứng bệnh “kinh niên” trong đời sống chính trị, lây như vết dầu loang, âm thầm lan rộng, nhất là ở nơi có sức đề kháng kém, nguy cơ biến thành những sân khấu để phường tuồng chính trị diễn tấu; thuyên giảm đi trong môi trường mà sự minh bạch, công tâm, sự thực tài, điều thẳng ngay được coi trọng và có sức sống, cùng con mắt tinh tường, hiểu người, thấu lý, thấu tâm của người lãnh đạo.

          Nước càng sâu càng tĩnh. Người thực tài thường khiêm cung. Kẻ yếu nhược lại hay tự cao, tự đại.

          Ngẫm lại lời của người đứng đầu Đảng ta càng thấy thêm sự sâu sắc, rằng, mọi cán bộ, đảng viên, công chức cần thường xuyên tự soi, tự sửa, tự răn mình, tránh xa những cám dỗ vật chất, tham vọng quyền lực. Đức Phật cũng dạy: “Thiểu dục và tri túc” (biết tiết chế dục vọng và biết đủ)... Âu đó cũng là đường sáng để những người mắc chứng bệnh này tỉnh ngộ, tự tiết chế bản thân, tránh thành bạo bệnh mà phải gánh hậu họa khôn lường!./.

CÔNG CUỘC "ĐỐT LÒ" LÀ ĐỂ GẠN ĐỤC, KHƠI TRONG, KHÔNG CÓ CÁI GỌI LÀ “CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐẤU ĐÁ, THANH TRỪNG NỘI BỘ"

 

          Lâu nay trên không gian mạng vẫn thường nghe các tổ chức phản động rêu rao rằng: “Các đảng viên Cộng sản cao cấp đấu đá ,thanh trừng nhau để tranh giành quyền lực, lợi ích nhóm, đấu đá, thanh trừng nội bộ". Chúng xuyên tạc rằng công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng của chúng ta thực chất là đang thanh trừng phe cánh, đấu đá nội bộ... Xin có đôi lời như sau:

          Việc "đốt lò", xử lý những cán bộ, đảng viên sa vào chủ nghĩa cá nhân, tham nhũng, tiêu cực, gây hậu quả nghiêm trọng... là sự cụ thể hóa quyết tâm của Đảng trong việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Những người bị xử lý từ xưa đến nay có cả Ủy Viên bộ Chính trị đến những Đảng viên bình thường. Nghĩa là không chừa một ai, không có vùng cấm, không dung túng cho cái xấu, cái tiêu cực hoành hành. Đảng và nhà nước ta xử lý cán bộ Đảng viên vi phạm theo điều lệ Đảng, theo tinh thần thượng tôn pháp luật, đúng người, đúng tội và có lý, có tình chứ không phải là “thanh trừng nội bộ” như cái cách mà đám xỏ lá ba que vẫn rêu rao, xuyên tạc. Kể cũng lạ thay, khi chúng ta chưa kịp xử lý tham nhũng, tiêu cực thì chúng cho rằng chúng ta bao che, dung túng, vì lợi ích nhóm…nhưng khi chúng ta quyết tâm “diệt trừ tham nhũng, tiêu cực” thì chúng lại cho là đấu đá, thanh trừng nội bộ. Đúng như nhân dân ta thường bảo nhau “không dối trá, xuyên tạc thì không phải là ba que xỏ lá!

          Cổ nhân có câu “nhân vô thập toàn” và Đảng cũng không phải là ngoại lệ. Trong mỗi thời kỳ đều luôn có những loài sâu mọt, thậm chí chúng đã chui sâu, leo cao để đứng trong hàng ngũ của những người Cộng sản. Những kẻ thoái hóa, biến chất, sa vào chủ nghĩa cá nhân, tham nhũng, tiêu cực, cơ hội, trở cờ để hại dân, phản Đảng. Những kẻ đó, thời nào cũng có và dù sớm hay muộn thì chúng cũng bị trừng trị thích đáng. Loại bỏ, ra khỏi hàng ngũ của Đảng, để góp phần làm trong sạch Đảng, để xứng đáng “vừa là người lãnh đạo vừa là đầy tớ trung thành của nhân dân”. Cổ nhân dạy "cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm; tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ". Những người không tu thân, không tề gia được thì sao có thể trị quốc, bình thiên hạ. Bất kể là ai, vi phạm thì tất bị xử lý. Cắt bỏ ung nhọt cứu cơ thể, diệt trừ sâu bọ để vườn rau tốt tươi. Đảng cộng sản Việt Nam muốn trường tồn, phát triển và được nhân dân tin yêu thì tất yếu phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn, tự khắc phục khuyết điểm.

          ĐẤU ĐÁ, THANH TRỪNG NỘI BỘ:

          Đấu đá, tranh giành và thanh trừng nội bộ thì phải kể đến chế độ tay sai, bán nước ngụy Sài Gòn, một chế độ được Việt Tân và các tổ chức phản động ngợi ca hết lời và tỏ ý vô cùng tiếc nuối, dù nó đã là bộ xương khô trong mả hơn 47 năm. Đó là chế độ mà các cuộc đảo chính liên tiếp xảy ra, phản ánh mức độ mâu thuẫn, tranh giành ảnh hưởng, thanh trừng, giết hại lẫn nhau giữa các phe phái trong “nội bộ” của các nhóm, các đảng phái chánh trị. Chúng giết nhau để tranh giành quyền được phục vụ quan thầy Hoa Kỳ của chúng, được ăn trên, ngồi trốc, được hưởng lợi từ “bố nuôi”, “được danh gia vọng tộc” ngay trên nỗi đau của nhân dân ta. Có lẽ, thuật ngữ “Thanh trừng nội bộ”, “đấu đá nội bộ”, "Nhóm lợi ích" hay "Lợi ích nhóm" đã hình thành rõ nét từ đây.. Nhìn lại thời kỳ đất nước chưa được giải phóng, chế độ ngụy Sài Gòn do bè lũ tay sai Diệm, Thiệu cầm đầu, chúng ta sẽ thấy đó là thời kỳ của những cuộc thanh trừng đẫm máu giữa các phe phái: Có thể dễ dàng kể ra vài vụ như sau:

          - Đảo chính 1960: Đây là cuộc đảo chính quân sự đầu tiên của chế độ tay sai ngụy Sài Gòn, do Đại tá Nguyễn Chánh Thi và Trung tá Vương Văn Đông cầm đầu với mục đích lật đổ ngôi vị Tổng thống của Ngô Đình Diệm. Cuộc đảo chính diễn ra trong bối cảnh Ngô Đình Diệm đã tiêu diệt và thâu tóm được nhóm quân sự Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo, nhóm vũ trang của các đảng Đại Việt, Quốc dân Đảng. Phần thắng thuộc về Diệm và đồng bọn; buộc Nguyễn Chánh Thi phải lưu vong nơi đất khách (bản nhạc Hải ngoại thương ca của Nguyễn Văn Đông viết về việc này).

          - Đảo chính 1963: Đây là cuộc đảo chính do các tướng lĩnh ngụy Sài Gòn như, Dương Văn Minh, Trần Thiện Khiêm, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính, Lê Văn Kim cùng các thuộc cấp thực hiện với sự giúp sức của Hoa Kỳ vào ngày 1/11/1963. Chúng đã thanh toán, tiêu diệt đối thủ là anh em Diệm, Nhu, Cẩn, xóa cái gọi là “nền Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam”; chuyển vai trò lãnh đạo sang “Hội đồng quân sự” do Dương Văn Minh đứng đầu. Lý do dẫn đến cuộc đảo chính 1963 do các tướng lĩnh Việt nam Cộng hòa bất mãn trước cách cai trị của chính quyền Ngô Đình Diệm mà bản chất là sự tranh giành quyền lực giữa các phe phái trong nội bộ và nó được tiếp sức bởi người Mỹ, do Diệm không thực hiện những thay đổi chính trị theo khuyến cáo của họ.

          - Hàng loạt cuộc đảo chính 1964 - 1965: Sau sự kiện anh em Ngô Đình Diệm bị giết, chỉ trong thời gian từ 1964 đến 1965 đã có 5 cuộc đảo chính khác, mà sự kiện mở màn là cuộc chỉnh lý đầu năm 1964. Cuộc “chỉnh lý” năm 1964 của ngụy tặc là một cuộc đảo chính xảy ra vào ngày 30/1/1964 do tướng Nguyễn Khánh cầm đầu nhằm loại bỏ vai trò lãnh đạo của Hội đồng quân sự do Dương Văn Minh đứng đầu. Tiếp theo cuộc "Chỉnh lý" ngày 19/12/1964, lại diễn ra một cuộc đảo chính khác do tướng Nguyễn Khánh, tướng không quân Nguyễn Cao Kỳ và tướng lục quân Nguyễn Văn Thiệu chỉ huy.. Kết quả, Nguyễn Khánh và Hội đồng Quân lực mới được thành lập, gồm các tướng đã tham gia vào cuộc đảo chính, đã khôi phục lại quyền kiểm soát dân sự vào ngày 07/01/1965 với một chính phủ do Trần Văn Hương dẫn dắt. Tuy nhiên, Trần Văn Hương không thể thành lập được một “Chính phủ” hữu hiệu và Hội đồng Quân lực đã tiếp tục đảo chính lật đổ Hương vào ngày 27/1, đồng thời đưa Nguyễn Khánh lên nắm quyền. Chỉ sau hơn 3 tuần nắm quyền, Nguyễn Khánh cũng đã lại bị lật đổ bởi một cuộc đảo chính khác vào ngày 18/02/1965 do Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Văn Thiệu cầm đầu. Tới 12/06/1965, một cuộc đảo chính nữa lại nổ ra, khi Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ lại lật đổ chính phủ do Phan Huy Quát (anh trai của cố giáo sư sử học Phan Huy Lê) đứng đầu. Nguyễn Văn Thiệu làm Quốc trưởng còn Nguyễn Cao Kỳ làm Thủ tướng.

          Nói đến đấu đá, hạ bệ lẫn nhau để tranh giành tầm ảnh hưởng, tranh giành “quyền lừa đảo kiếm tiền” nhân danh “chống Cộng” là phải nói đến các tổ chức phản động - vong quốc nô, là cộng đồng quốc tế dùng tiếng Việt (cũng có đứa không biết hoặc không rành tiếng Việt nhưng vẫn đi “chống Cộng”) ở hải ngoại. Chúng là tập hợp một lũ ô hợp từ những tên đu càng đến tụt quân từ 1975 cho đến những tên sang nước ngoài theo diện HO, những kẻ “tù nhân lương tâm” được Tây lông chứa chấp và cho “tị nạn chánh trị” cho đến những chị cave “yêu nghề những đã hết vốn làm ăn”, đến những anh nghiện hút nhưng hết tiền để hút…tạo thành một bức tranh hổ lốn, bát nháo và là nơi “quần khuyển tranh cốt” (đàn chó tranh xương); là nơi để hàng trăm tổ chức nhân danh chống Cộng đấu đá, xâu xé, phỉ báng và triệt hạ lẫn nhau theo kiểu nhóm Đào Minh Quân chửi Đỗ Hoàng Điềm, Lý Thái Hùng và ngược lại. Với bản chất lừa đảo của mình nên tất cả bọn chúng tranh nhau để xem ai mới là “siêu lừa đảo”, xem ai mới là “chí tôn chống Cộng” với mục đích cuối chỉ là tiền, là bơ thừa, sữa cặn của các thế lực thù địch bơm cho chúng và để lừa Việt kiều quyên tiền cho chúng.

          Từ những luận điểm trên, có thể khẳng định rằng: “đấu đá, thanh trừng nội bộ” chỉ có ở ngụy Sài Gòn và lũ vong quốc nô! Chỉ tồn tại ở đám có dòng máu “liếm gót giày tây béo mượt đầu” gia truyền chúng mày mà thôi! luận điệu của chúng là luận điệu của một lũ lừa đảo đầu sỏ, không hơn, không kém! Dù các ngươi có dùng trăm mưu hèn và ngàn kế bẩn thì cái kết sẽ là sự thất bại, đớn hèn và thật nhục nhã như cái cách mà tên phản quốc đã khai sinh ra tổ chức khủng bố Việt Tân là Hoàng Cơ Minh phải nhận mà thôi! Nhân dân Việt Nam sẽ chiến thắng thù trong, giặc ngoài cho dù chúng là ai, lịch sử của dân tộc đã chứng minh chân lý đó. Công cuộc "đốt lò" của Đảng cộng sản Việt Nam mà người đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã và đang gặt hái được nhiều thành quả, được nhân dân tin yêu và đất nước ngày càng phát triển, là minh chứng rõ nét nhất. Ch.ó vẫn cứ s.ủa và lò vẫn sáng rực lên./.

KHẲNG ĐỊNH VỊ THẾ QUỐC TẾ TRONG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM

 

Việc Việt Nam nhận được tín nhiệm cao và trúng cử trở thành một trong 14 thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025 không chỉ khẳng định niềm tin của các quốc gia trong khu vực cũng như trên thế giới, mà còn cho thấy sự coi trọng của bạn bè quốc tế đối với vị thế của Việt Nam trong các hoạt động thúc đẩy, bảo đảm quyền con người trên phạm vi toàn cầu.

Với vị trí là cơ quan trực thuộc Đại hội đồng Liên hợp quốc, Hội đồng Nhân quyền là cơ chế quan trọng nhất của Liên hợp quốc về quyền con người, có nhiệm vụ thảo luận tình hình về quyền con người trên phạm vi toàn cầu và đưa ra các khuyến nghị đến các quốc gia cũng như Báo cáo trình Đại hội đồng Liên hợp quốc vấn đề vi phạm quyền con người… Trở thành thành viên của Hội đồng Nhân quyền là cơ hội quan trọng để tăng cường thúc đẩy và bảo vệ quyền con người ở cả cấp độ quốc tế và quốc gia.

Việt Nam được các nước thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) ủng hộ trở thành ứng cử viên duy nhất trong khu vực để tranh cử vị trí thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025. Việt Nam đạt được sự tín nhiệm của cộng đồng quốc tế khi bỏ phiếu trúng cử, cùng với Bangladesh, Maldives, Kyrgyzstan trở thành đại diện của khu vực châu Á và Thái Bình Dương trong Hội đồng Nhân quyền.

Đây là lần thứ hai Việt Nam trúng cử thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, trước đó trong nhiệm kỳ 2014-2016, Việt Nam cũng đã nhận được sự ủng hộ rất cao của bạn bè quốc tế. Việc tái cử vào Hội đồng Nhân quyền thể hiện sự tín nhiệm của các quốc gia đối với Việt Nam về những nỗ lực bảo vệ quyền con người ở cấp độ khu vực cũng như toàn cầu.

Tuy nhiên, lợi dụng cơ chế Kháng thư Liên hợp quốc, số đối tượng chống đối, phản động lưu vong không chỉ gửi Kháng thư để kêu gọi đại diện các quốc gia như Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu tại Liên hợp quốc không bỏ phiếu cho Việt Nam trở thành thành viên Hội đồng Nhân quyền, mà còn gửi Kháng thư yêu cầu thả các đối tượng vi phạm pháp luật Việt Nam mà chúng cho rằng đó là “người bất đồng chính kiến” hay “người bảo vệ nhân quyền”.

Trong giai đoạn 2015-2020, Việt Nam tiếp nhận và gửi thông tin trả lời 50 Kháng thư Liên hợp quốc. Việt Nam đã tiếp xúc với Nhóm làm việc về giam giữ độc đoán của Liên hợp quốc để làm rõ các thông tin sai lệch trong Kháng thư liên quan đến quá trình bắt giữ, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với các đối tượng được đề cập. Sau đó các tổ chức của Liên hợp quốc không gửi thêm Kháng thư về các đối tượng này.

Đảng và Nhà nước ta luôn xác định cơ chế đối thoại về nhân quyền tại Hội đồng Nhân quyền là cơ hội để Việt Nam đưa ra những bằng chứng về thành tựu nhân quyền ở Việt Nam, đấu tranh với những luận điệu vu cáo, bôi nhọ, xuyên tạc chủ trương, chính sách về quyền con người của Việt Nam.

Ngoài ra, Việt Nam còn tích cực đăng cai tổ chức một số hội thảo, hội nghị quốc tế, chủ động mời các báo cáo viên đặc biệt Liên hợp quốc vào thăm Việt Nam, đón các đoàn khách quốc tế vào làm việc, qua đó thể hiện thiện chí hợp tác của Việt Nam với các cơ chế nhân quyền Liên hợp quốc. Trong bài viết “Nhân phẩm, tự do và công lý cho tất cả” công bố vào ngày 10/12/2022 bà Pauline Tamesis, Điều phối viên thường trú Liên hợp quốc tại Việt Nam khẳng định: “Việt Nam đã ưu tiên thực hiện các cam kết và nghĩa vụ của mình theo các điều ước quốc tế về quyền con người”.

Vai trò của Việt Nam trong những nỗ lực chung để bảo đảm và thúc đẩy quyền con người trên phạm vi toàn cầu thể hiện qua những đóng góp tích cực của Việt Nam trong Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc. Tháng 7/2022, Việt Nam chủ trì, phối hợp với Bangladesh và Philippines soạn thảo, đề xuất lên Hội đồng Nhân quyền thông qua Nghị quyết về bảo đảm quyền của các nhóm dễ bị tổn thương trong bối cảnh biến đổi khí hậu.

Nghị quyết được thông qua phản ánh nỗ lực của Việt Nam thực hiện có trách nhiệm với các vấn đề chung của cộng đồng quốc tế, cũng như kêu gọi các nước cần có hành động tích cực để bảo đảm sự tham gia của đại diện các nhóm dễ bị tổn thương trong việc xây dựng các biện pháp, chính sách về ứng phó với biến đổi khí hậu. Việt Nam chủ động đề xuất lên Hội đồng Nhân quyền ban hành Nghị quyết về biến đổi khí hậu và quyền của từng nhóm yếu thế như quyền trẻ em, quyền của phụ nữ hay quyền cho các nhóm yếu thế về sức khỏe, quyền có lương thực trong bối cảnh biến đổi khí hậu.

Đặc biệt, vấn đề bảo vệ môi trường sống cho con người và ứng phó với biến đổi khí hậu là vấn đề đang được Việt Nam thực hiện bằng nhiều biện pháp, từ đưa ra các cam kết quốc tế về mục tiêu giảm phát thải ròng khí nhà kính bằng “0” vào năm 2050 (Quyết định số 896/QĐ-TTg ngày 26/7/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050), hay đưa vào trong quy định của Luật Bảo vệ môi trường.

Những cam kết và nỗ lực mạnh mẽ của Việt Nam trong việc bảo đảm, bảo vệ quyền con người được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến việc Việt Nam tiếp tục cử lực lượng tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tại Phái bộ Nam Sudan, Cộng hòa Trung Phi, khu vực Abyei. Từ tháng 10/2018 đến nay, Việt Nam triển khai 4 bệnh viện dã chiến cấp 2 tại Nam Sudan để chăm sóc sức khỏe cho nhân viên Liên hợp quốc, cũng như các hoạt động hỗ trợ bệnh viện địa phương trong việc chăm sóc sức khỏe của người dân.

Một điểm sáng về sự tiên phong của Việt Nam trong việc thực hiện nghĩa vụ quốc tế, nhằm khẳng định vai trò của phụ nữ và hòa bình và an ninh theo tinh thần Nghị quyết 1325 (2000) của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc về chương trình phụ nữ, hòa bình và an ninh đó là cử 74 nữ quân nhân, 01 nữ sĩ quan công an tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc.

Việt Nam cũng là thành viên có trách nhiệm, luôn ủng hộ các chương trình phát triển của Liên hợp quốc, tạo điều kiện cho các tổ chức phi chính phủ thực hiện các dự án tại

Việt Nam, nhất là các dự án nhằm tăng cường vai trò cũng như bảo đảm quyền của các nhóm yếu thế trong xã hội. Sự chủ động, tích cực của Việt Nam trong các cam kết nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc đã giúp chỉ số phát triển con người (HDI) ở Việt Nam tăng 45,8% vào năm 2020, đưa Việt Nam vào danh sách các quốc gia có tốc độ tăng trường HDI cao nhất thế giới.

Nhờ đó Việt Nam đã tăng hai bậc trong bảng xếp hạng toàn cầu từ 117 trên 189 quốc gia vào năm 2019 lên 115 trên 191 quốc gia vào năm 2021. Bên cạnh đó, Báo cáo Hạnh phúc Thế giới (World Happiness Report - WHR) năm 2022 cho biết, Việt Nam đã tăng 2 bậc so với năm 2021, xếp thứ 77 trên hơn 150 quốc gia và vùng lãnh thổ; tỷ lệ hộ nghèo đa chiều chỉ còn 4,4% vào năm 2021.

Tại khu vực Đông Nam Á, năm 2020, với vai trò là Chủ tịch ASEAN, đồng thời là Chủ tịch Ủy ban liên chính phủ ASEAN về quyền con người (AICHR), Việt Nam đề xuất sáng kiến để cùng các quốc gia AICHR ra Thông cáo báo chí chung về đại dịch Covid-19, từ đó Nhóm công tác liên ngành Hội đồng điều phối ASEAN về các tình huống y tế công cộng khẩn cấp được thành lập, huy động thành lập Quỹ ASEAN ứng phó với dịch bệnh Covid-19, qua đó thúc đẩy sự đoàn kết, thống nhất và hợp tác trong ASEAN để bảo vệ quyền con người trong đại dịch.

Những nỗ lực và thành quả nêu trên có được là do những ưu tiên, nỗ lực của Chính phủ Việt Nam trong việc ghi nhận, bảo đảm quyền con người và thúc đẩy bình đẳng xã hội, nhất là trong lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc, bảo đảm tự do tín ngưỡng, chăm lo chính sách cho đồng bào dân tộc thiểu số, người nghèo, vùng sâu vùng xa... Nhưng các đối tượng chống phá và phản động lưu vong ở nước ngoài luôn tìm cách chống phá, xuyên tạc, phủ nhận thành tựu nhân quyền của Việt Nam.

Lợi dụng việc Nhà nước xử lý một số vụ việc nóng, phức tạp về an ninh trật tự theo quy định của pháp luật, chúng luôn tìm cách khơi lại, thổi phồng, bóp méo bản chất sự việc nhằm xuyên tạc, vu cáo đó là biểu hiện của “vi phạm nhân quyền”, “đàn áp tôn giáo”, “đàn áp người dân tộc thiểu số” kích động bất bình trong dư luận hoặc lấy cớ gặp gỡ các tổ chức nhân quyền quốc tế hay những nhân vật có định kiến với Việt Nam.

Qua đó nhằm tìm kiếm sự ủng hộ, hỗ trợ về tài chính để tiến hành các hoạt động chống đối; kêu gọi các nước phương Tây, các tổ chức NGO can thiệp, đưa ra các đạo luật, nghị quyết chống Việt Nam; mưu đồ tham gia các hội nghị quốc tế về nhân quyền, lợi dụng diễn đàn quốc tế để tuyên truyền, xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền, yêu cầu đòi tự trị, ly khai; tổ chức biểu tình trước Đại sứ quán, lãnh sự quán của Việt Nam tại nước ngoài để ủng hộ cái gọi là “phong trào đấu tranh đòi tự do”, “lên án, phản đối” nhà cầm quyền Việt Nam, đòi thả “tù nhân lương tâm”.

Thể hiện sự minh bạch về thông tin, trong các cuộc đối thoại nhân quyền thường niên với Liên minh châu Âu, Hoa Kỳ hay Australia, Việt Nam luôn chủ động cung cấp thông tin, vừa vận động vừa đấu tranh để giải đáp các thắc mắc, thu hẹp khác biệt với các nước về vấn đề nhân quyền cũng như vạch mặt những đối tượng vi phạm pháp luật, lợi dụng dân chủ, nhân quyền để chống phá Đảng, Nhà nước. Qua đó giúp các bên hiểu rõ hơn về tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, bác bỏ thông tin sai lệch, thiếu khách quan.

Trong thời gian tới, dự báo các thế lực thù địch vẫn sẽ tiếp tục lợi dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền để xuyên tạc, vu cáo Việt Nam, tạo cớ can thiệp, thực hiện âm mưu diễn biến hòa bình, hạ thấp uy tín, hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế. Do đó, các hoạt động ngoại giao, thông tin đối ngoại và đối thoại về vấn đề dân chủ, nhân quyền tại Việt Nam càng cần được chú trọng.

Cụ thể cần tiếp tục đẩy mạnh công tác đấu tranh ngoại giao và chủ động cung cấp thông tin, đối thoại về nhân quyền với các nước, tổ chức quốc tế theo hướng giữ vững nguyên tắc độc lập chủ quyền và an ninh quốc gia, tôn trọng lập trường, quan điểm của nhau. Kiên quyết đấu tranh với các âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch về dân chủ, nhân quyền. Mở rộng quan hệ với các chính giới, doanh nghiệp, học giả phương Tây để cộng đồng quốc tế hiểu rõ hơn chính sách của Việt Nam, tạo sự đồng tình, ủng hộ./.

  

 

                                                                                THH – H2