Thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đến nay, đất nước ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực. Điều đó khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, khẳng định giá trị lý luận, thực tiễn của Cương lĩnh cần được bảo vệ trong bối cảnh mới trước hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Nội dung bài viết tập trung nghiên cứu làm rõ: Cương lĩnh là gì, cơ sở để xây dựng Cương lĩnh, sự cần thiết, vai trò của Cương lĩnh; bảo vệ giá trị lý luận, thực tiễn của Cương lĩnh; đánh giá kết quả về nhận thức lý luận, thực tiễn qua 10 năm thực hiện Cương lĩnh năm 2011; và đưa ra những giải pháp bảo vệ Cương lĩnh năm 2011.
Từ khóa: bảo vệ; bảo vệ giá trị; bảo vệ Cương lĩnh; Cương
lĩnh 2011.
“Cương lĩnh là mục đích, đường lối và nhiệm vụ cơ bản của một
tổ chức chính trị, một chính đảng”(1). Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng
Việt Nam trước hết bằng Cương lĩnh chính trị, trong đó trình bày những quan điểm
cơ bản về mục tiêu, nhiệm vụ, đường lối chiến lược, phương hướng, phương thức
cách mạng trong từng giai đoạn lịch sử. Cương lĩnh của Đảng ta được xây dựng
trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thực tiễn cách mạng Việt
Nam và kinh nghiệm của các đảng cộng sản trên thế giới. Chính vì vậy, Cương
lĩnh vừa có tính lý luận khoa học vừa có tính thực tiễn sâu sắc, kết hợp tính
giai cấp và tính dân tộc, đáp ứng yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam ở mỗi
giai đoạn. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng
khẳng định: “Mỗi một chính đảng hoặc tổ chức chính trị, để có chính danh, định
hướng hành động cho các thành viên của mình và tập hợp tổ chức quần chúng, thường
cần phải có cương lĩnh (như tuyên ngôn, tuyên bố, lời kêu gọi…), trong đó trình
bày những quan điểm cơ bản về mục đích, đường lối, nhiệm vụ, cách thức hoạt động
cho một giai đoạn lịch sử nhất định”(2).
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng hơn 90 năm qua, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã ban hành 5 bản Cương lĩnh. Mỗi Cương lĩnh của Đảng được ban
hành, thực hiện trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể và đều trở thành nền tảng tư
tưởng, lý luận, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng, của cách mạng Việt Nam;
trở thành ngọn cờ dẫn đường, chỉ lối cho toàn Đảng, toàn dân đấu tranh, lao động,
sáng tạo, đưa cách mạng Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách, giành thắng
lợi vĩ đại “Cương lĩnh là tuyên ngôn chính trị của Đảng, mang tầm định hướng
chiến lược về con đường phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội; là ngọn cờ chiến đấu của Đảng và dân tộc ta trong sự nghiệp xây dựng đất
nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội; là nền tảng lý luận, nền tảng tư tưởng
và chính trị, định hướng cho mọi hoạt động của chúng ta hiện nay cũng như trong
những thập kỷ tới”(3). Cương lĩnh năm 2011 được xây dựng trên cơ sở tổng kết
quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng, trực tiếp là tổng kết 20 năm thực hiện
Cương lĩnh năm 1991, 25 năm công cuộc đổi mới, dự báo xu thế phát triển của thế
giới, của đất nước, đề ra mục tiêu, mô hình, phương hướng và những định hướng lớn
phát triển đất nước.
Bảo vệ giá trị lý luận, thực tiễn của Cương lĩnh chính trị thực
chất là bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ thành quả của cách mạng Việt Nam, bảo vệ
sự nghiệp đổi mới Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước “Bảo vệ Cương lĩnh, đường
lối của Đảng là bảo vệ sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, vì Đảng lãnh đạo, cầm
quyền chủ yếu bằng Cương lĩnh, đường lối, nghị quyết... Bảo vệ sự đúng đắn của
Cương lĩnh, đường lối với những giá trị lý luận, khoa học, bắt nguồn từ nền tảng
tư tưởng của Đảng là Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”(4).
Mười năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) và
thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đã tạo ra những bước
tiến quan trọng cả về nhận thức lý luận và tổ chức thực hiện, khẳng định những
giá trị to lớn của Cương lĩnh.
Về nhận thức lý luận: Mục tiêu, đặc trưng, những phương hướng
cơ bản và những quan hệ lớn mang tính quy luật trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc tiếp tục được bổ sung, cụ thể hóa, phát triển với
những nhận thức quan trọng. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
mô hình phát triển tổng quát của nền kinh tế Việt Nam. Gắn kết giữa tăng trưởng
kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; phát huy nhân tố con người,
lấy nhân dân làm trung tâm; phát huy vai trò của văn hóa - nền tảng tinh thần của
xã hội, là mục tiêu, động lực của sự phát triển. Khẳng định bản chất của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân; đổi mới phương thức vận hành của Nhà nước theo hướng hoàn thiện thể
chế, phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; hoàn thiện mô hình tổ
chức của Nhà nước, phân công, phối hợp giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp, coi trọng kiểm soát quyền lực nhà nước; giải quyết mối quan hệ giữa Nhà
nước, thị trường và xã hội, quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân.
Nhận thức sâu sắc hơn bản chất, tính cách mạng, tính tiên phong của Đảng; vai
trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; yêu cầu xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
toàn diện cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; nâng cao năng
lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng trong điều kiện mới; đẩy mạnh xây dựng đội
ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín,
ngang tầm nhiệm vụ (5)
Quán triệt sâu sắc phương châm bảo đảm quốc phòng, an ninh là
nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Kết hợp chặt chẽ giữa bảo đảm quốc phòng, an
ninh với phát triển kinh tế - xã hội; hoàn thiện lý luận về quốc phòng, an ninh
và tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi “nước chưa nguy” trên cơ
sở xây dựng thế trận lòng dân vững chắc; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có một số quân chủng, binh
chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại(6)
Hoàn thiện và nhận thức sâu sắc hơn đường lối đối ngoại độc lập,
tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối
ngoại; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của
cộng đồng quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Bảo
đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ
bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác,
cùng có lợi; chú trọng nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế trong tình hình mới(7).
Về thực tiễn: Trong 10 năm qua, mặc dù gặp nhiều khó khăn,
thách thức rất lớn, nhưng kinh tế - xã hội nước ta đã đạt được nhiều thành tựu
rất quan trọng, khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực. Tốc độ tăng trưởng
kinh tế được duy trì ở mức độ khá cao. Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại
nền kinh tế và thực hiện ba đột phá chiến lược có bước chuyển biến tích cực, đạt
một số kết quả đáng khích lệ. Thể chế kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại và hội
nhập, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước được xác lập. Giáo dục và đào
tạo có bước đổi mới, đóng góp tích cực vào xây dựng con người, phát triển nguồn
nhân lực. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực. Nhiều công trình kết cấu hạ tầng hiện đại được xây dựng,
đưa vào sử dụng(8)
Các lĩnh vực văn hóa, xã hội tiếp tục được phát triển. Giảm
nghèo nhanh và bền vững hơn, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. An sinh xã hội,
phúc lợi xã hội từng bước được nâng cao. Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường
và thích ứng với biến đổi khí hậu được chú trọng, quốc phòng, an ninh được tăng
cường; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ
xã hội chủ nghĩa; bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Quan hệ đối ngoại
và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; giữ vững môi trường hòa bình để phát
triển đất nước; vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam tiếp tục được nâng cao(9) Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới,
30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực
hóa. Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử,… Đất nước
ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay(10).
Những thành tựu của 35 thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực
hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm
1991, đặc biệt, trong 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm
2011) đã tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo.
Cụ thể: “Thực tiễn 35 năm đổi mới đất nước, Việt Nam đã đạt được những thành tựu
đáng ghi nhận trên các lĩnh vực. Nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển
liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt những năm qua với mức tăng trưởng
trung bình 7%/năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỷ
USD, trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người
tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu
nhập thấp từ năm 2008. Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay Việt
Nam không những đã bảo đảm được an ninh lương thực mà còn trở thành một nước xuất
khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Đến nay, hơn 60% số xã
đạt chuẩn nông thôn mới; hầu hết các xã nông thôn đều có đường ô tô đến trung
tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu học, trung học cơ sở, trạm y tế và điện
thoại…”(11)
Trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động nhanh
chóng, phức tạp, khó lường. Cương lĩnh của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng,
ngọn cờ chiến đấu, ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu
vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” (12).
Để bảo vệ giá trị lý luận, thực tiễn của Cương lĩnh 2011 trong thời gian tới, cần
thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Một là, tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn bổ
sung, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới
Đây là giải pháp có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Học thuyết về
chủ nghĩa xã hội khoa học được Mác, Ăngghen xây dựng và Lênin phát triển là học
thuyết mở “chúng ta không hề coi lý luận của Mác như một cái gì đã xong xuôi hẳn
và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng
cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về
mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”(13). Theo tinh
thần đó, những nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác-Lênin luôn đòi hỏi những người cộng
sản, những người cách mạng sau này phải biết vận dụng sáng tạo và phát triển học
thuyết của các ông để khỏi lạc hậu với cuộc sống. Đây cũng là những quan điểm
mà Hồ Chí Minh trước kia đã nhiều lần nói đến, nhưng chúng ta chưa nghiên cứu kỹ
để vận dụng khi cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, phải nhận thức lại
cho đúng những quan điểm của Mác, Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội,
phải nắm vững những biến đổi mới của đất nước và thời đại mới có thể nói đến
phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội, xác định được mô hình chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Thực tiễn đổi mới của đất nước và biến đổi của thế giới “đặt ra nhiều
vấn đề về lý luận và thực tiễn cần phải tập trung giải quyết để đưa đất nước
phát triển nhanh và bền vững hơn theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (14). Vì vậy
trong quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng ta phải “Kiên định và vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”(15) đồng thời thường xuyên nghiên
cứu, tổng kết thực tiễn, phát hiện những vấn đề mới “Lúc này chúng ta chưa có đủ
cơ sở để vẽ ra toàn bộ bức tranh của xã hội tương lai một cách hoàn chỉnh.
Nhưng… chúng ta có thể vạch ra những nguyên tắc và phương hướng lớn cho thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta… Sau này khi thực tiễn bộc lộ những vấn đề
mới, qua tổng kết, Cương lĩnh sẽ không ngừng được bổ sung và hoàn chỉnh từng bước”(16),
tìm tòi những khả năng, nguồn lực mới để tiếp tục bổ sung, làm phong phú thêm nội
dung của Cương lĩnh, mở ra những điều kiện mới để giúp cho việc thực hiện Cương
lĩnh hiệu quả hơn: “Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, hoàn thiện
hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” (17) . Có như vậy công tác lý luận mới không chậm
trễ, không lạc hậu với cuộc sống, mới cung cấp được căn cứ lý luận cho việc hoạch
định đường lối, chính sách của Đảng, soi sáng cho sự vận động của thực tiễn; và
thực tiễn vận động sẽ kiểm nghiệm lý luận, cung cấp căn cứ thực tiễn cho lý luận
và là động lực thúc đẩy lý luận phát triển.
Hai là, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực
lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam có sứ mệnh lãnh đạo Nhà nước, xã hội
thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, từng bước hiện thực hóa mục tiêu xây dựng đất nước dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. Để hoàn thành trọng trách trước dân tộc, Đảng phải
không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu. Cương lĩnh năm 2011,
đã đúc kết 5 bài học kinh nghiệm lớn, trong đó nhấn mạnh: “sự lãnh đạo đúng đắn
của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam” (18),
là bài học quan trọng nhất trong các bài học kinh nghiệm lớn được đúc rút qua
hơn 90 năm Đảng ta lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
cũng có sự am hiểu sâu sắc, sự sẻ chia, đồng cảm, sự gợi mở, định hướng thuyết
phục. Đồng chí nhấn mạnh: Nhận thức sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là
nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát
triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đặc biệt chú trọng
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống
còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh thế giới có đầy biến
động phức tạp, Đảng phải giữ vững bản chất giai cấp công nhân, bản chất cách mạng,
khoa học; kiên định, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh để hoạch định đường lối cách mạng đúng đắn. Phải “tôn trọng quy luật khách
quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực
tiễn đặt ra” (19). Kết hợp chặt chẽ xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện với triển
khai đồng bộ, toàn diện công cuộc đổi mới, gắn xây dựng, chỉnh đốn Đảng với xây
dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị, trọng tâm là đổi mới, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả của tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất,
năng lực ngang tầm nhiệm vụ, đặc biệt là cán bộ cấp chiến lược “Tập trung xây dựng
đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu các cấp đủ phẩm
chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” (20); “Nêu cao tinh thần tự giác tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách
mạng, thực hiện thường xuyên, sâu rộng, có hiệu quả việc học tập, làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ
chính trị. Thực hiện nghiêm các quy định của Đảng về trách nhiệm nêu gương, chức
vụ càng cao càng phải gương mẫu” (21). Dựa chắc vào nhân dân để xây dựng, chỉnh
đốn Đảng “tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân”(22) , tạo
môi trường, cơ chế, điều kiện phát huy tính tích cực chính trị - xã hội của
nhân dân trong việc tham gia xây dựng đường lối, chính sách, trong kiểm tra,
giám sát, xây dựng tổ chức đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên “Phát huy
tính tích cực chính trị - xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của nhân dân
tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng đội ngũ đảng
viên, cán bộ, công chức”(23) ; “Lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm
của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và
chất lượng cán bộ, đảng viên”(24) . Kiên quyết đấu tranh phòng, chống các biểu
hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ “Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, ngăn chặn,
đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; kết hợp chặt chẽ, hài hòa
giữa “xây” và “chống”, xây là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài, chống là
nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, thường xuyên” (25), cảnh báo nguy cơ chệch hướng
xã hội chủ nghĩa.
Ba là, đẩy mạnh nghiên cứu các thành tựu mới về phát triển lý
luận chính trị thế giới
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng ta
đã không ngừng nghiên cứu, trao đổi, học tập, áp dụng những cách làm hay của
các nước xã hội chủ nghĩa, các đảng cánh tả trên thế giới. Vì vậy “nghiên cứu kịp
thời, đánh giá đúng đắn và tham khảo một cách hợp lý thành tựu lý luận và thực
tiễn của các đảng, các nước XHCN trở thành một công việc có ý nghĩa rất
thiết thực đối với quá trình tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi
mới; bổ sung, phát triển, hoàn thiện lý luận nhận thức về CNXH và con đường
đi lên CNXH của đất nước” (26). Văn kiện Đại hội XIII khẳng định: “Từng bước
đưa hoạt động trao đổi lý luận của Đảng ta với một số đảng cầm quyền, đảng tham
chính ở một số nước đi vào chiều sâu, hiệu quả” (27). Các thành viên Hội đồng
lý luận trung ương, các nhà khoa học trong và ngoài nước cần tiếp tục đúc kết
những thành tựu nổi bật trong nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội mà các đảng bạn, nước bạn đạt được trong thời kỳ cập nhập
hóa, cải cách, đổi mới…; tập trung luận giả các căn cứ lý luận và thực tiễn của
các quan điểm chủ đạo của các đảng bạn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội; tiếp tục đánh giá những thành tựu của các đảng bạn, nước bạn
trong thực tiễn bảo vệ, xây dựng chủ nghĩa xã hội từ cuối thế kỷ XX đến nay; những
vấn đề nổi cộm về lý luận và thực tiễn đang đặt ra đối với các đảng bạn, nước bạn
trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; cần
nêu những giá trị, ý nghĩa của những thành tựu lý luận và thực tiễn của các đảng
bạn, nước bạn trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội mà Việt Nam cần quan tâm nghiên cứu, tham khảo… Quá trình Nghiên cứu Hội
đồng Lý luận Trung ương và các cơ quan, cá nhân có liên quan cần triển khai có
kế hoạch, bảo đảm tính chất khách quan, đa dạng; duy trì các kênh hợp tác
nghiên cứu với nước ngoài về những vấn đề lý luận trong nước, ngoài nước quan
tâm “các quốc gia, chính đảng cần nêu cao tinh thần đoàn kết, cộng đồng trách
nhiệm; tăng cường đối thoại, hiểu biết lẫn nhau, hợp tác quốc tế” (28); hợp tác
với các đối tác có kinh nghiệm... Trên cơ sở nghiên cứu đó, tiếp thu có chọn lọc
những giá trị tích cực, mở mang nhận thức lý luận chung của Đảng, của nhân dân
ta, tạo cơ sở cho việc củng cố niềm tin của nhân dân ta vào con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân ta đã
lựa chọn “Cũng cần thiết phải có những nghiên cứu mới, sâu sắc và thấu đáo hơn
so với những nghiên cứu trước đây về trào lưu dân chủ xã hội, về xu hướng và
triển vọng của các phong trào xã hội, các Đảng cánh tả, sự thay đổi trật tự thế
giới và chiến lược của các nước lớn. Những nghiên cứu như vậy giúp cho chúng ta
có một cái nhìn đa chiều, chỉnh thể và có hệ thống về thế giới, cung cấp các cứ
liệu cho việc dự báo, xác định đường lối, chính sách đối nội và đối ngoại”(29).
Bốn là, đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền bảo vệ giá
trị cốt lõi của Cương lĩnh
Cương lĩnh năm 2011 đưa ra những tư tưởng chỉ đạo lớn, những
định hướng tổng quát, cơ bản nhất với tầm nhìn rất xa. Đề Cương lĩnh đi vào thực
tiễn có hiệu quả cần đổi mới mạnh mẽ nội dung, hình thức tuyên truyền có vai
trò quan trọng, nhằm giải thích, thuyết phục, cổ vũ các tầng lớp nhân dân tích
cực ủng hộ vào công cuộc cách mạng và tổ chức hành động theo đường lối, tư tưởng
chính trị của Đảng. Nhấn mạnh vai trò của công tác tuyên truyền chính trị, V.I.
Lênin chỉ rõ: “Nhiệm vụ thứ nhất của bất cứ một chính đảng nào có trọng trách đối
với tương lai là thuyết phục cho đa số nhân dân thấy được sự đúng đắn của cương
lĩnh và sách lược của mình”.
Đổi mới nội dung tập trung làm rõ những nguyên tắc, định hướng
căn bản của Cương lĩnh, đồng thời phải tiếp tục cụ thể hóa, vận dụng sáng tạo
các nguyên tắc, định hướng của Cương lĩnh trong việc giải quyết những vấn đề thực
tiễn. Kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc đã được nêu trong Cương lĩnh,
nhất là mục tiêu, phương hướng, các tính chất đặc trưng của mô hình chủ nghĩa
xã hội, là bảo đảm cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc
xã hội không đi chệch hướng. Mặt khác, không ngừng sáng tạo trong vận dụng các
nguyên tắc, đưa ra các giải pháp, làm tốt công tác dự báo, nắm bắt đúng những
xu thế phát triển mới của thời đại, nhận thức đúng những chuyển biến mới, những
yêu cầu mới của thực tiễn đất nước là điều kiện để thực hiện thắng lợi Cương
lĩnh của Đảng. Quá trình thực hiện Cương lĩnh cũng chính là quá trình nghiên cứu,
tổng kết thực tiễn, phát hiện những vấn đề mới, tìm tòi những khả năng, nguồn lực
mới để tiếp tục bổ sung, làm phong phú thêm nội dung của Cương lĩnh, mở ra những
điều kiện mới để giúp cho việc thực hiện Cương lĩnh hiệu quả hơn.
Về hình thức tuyên truyền Cương lĩnh trong giai đoạn hiện
nay, cần phải đổi mới, đa dạng hóa các hình thức “Đổi mới nội dung, phương thức
tuyên truyền, vận động, sử dụng có hiệu quả các phương tiện truyền thông đại
chúng, mạng xã hội theo hướng thiết thực” (30) phát huy mạnh mẽ tác dụng của
các phương tiện truyền thông xã hội trong việc định hướng, cung cấp thông tin
chính thống, bảo đảm nhanh, chính xác, kịp thời; chú trọng tuyên truyền đặc
trưng, mô hình xã hội chủ nghĩa, mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội và mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI, các phương hướng cơ bản,
các mối quan hệ lớn của Cương lĩnh, thành tựu hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi
mới, hơn 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, hơn 10 năm thực hiện Cương lĩnh năm
2011. Chú trọng tuyên truyền hướng mạnh về cơ sở, vừa kịp thời phản ánh các mặt
của đời sống thực tiễn, vừa chuyển tải đầy đủ nội dung thông điệp chính trị đến
với các đối tượng, bảo đảm đáp ứng nguyện vọng của đông đảo tầng lớp nhân dân.
Khai thác triệt để các thành tựu của khoa học công nghệ hiện đại nhằm nâng cao
hiệu quả công tác tuyên truyền Cương lĩnh, kết hợp sử dụng các phương tiện truyền
thống với hiện đại như: panô, áp phích, tranh cổ động với sử dụng bảng điện tử.
Căn cứ vào từng đối tượng, sở thích tâm lý, lứa tuổi để có nội dung và hình thức
tuyên truyền tạo sức hút, có tác động lan tỏa sâu rộng. Đối vùng đồng bào dân tộc
thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo nội dung thông tin cần ngắn gọn,
dễ hiểu, nêu bật được các thông điệp, phù hợp với phong tục, văn hóa, tập quán
đồng bào.
Năm là, đẩy mạnh đấu tranh chống tư tưởng, quan điểm sai trái
phủ nhận giá trị của Cương lĩnh
Hiện nay, bối cảnh thế giới, khu vực có những diễn biến phức
tạp, nhanh chóng, khó lường; những thời cơ, thuận lợi, triển vọng và có cả những
khó khăn, thách thức mới của tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đất
nước… đã xuất hiện không ít những quan điểm sai trái, thù địch với nhiều cấp độ,
trình độ, hình thức biểu hiện từ nhiều đối tượng khác nhau chống phá Cương lĩnh
như: chúng cho rằng, chủ nghĩa xã hội đã sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu nên Việt
Nam kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là sai lầm, là “đi theo vết xe
đổ của Liên Xô” ; Đảng và Nhà nước Việt Nam chỉ quan tâm đổi mới kinh tế mà
không đổi mới chính trị; “Công cuộc đổi mới gần hơn 35 năm… vẫn giữ nguyên thể
chế độc đảng toàn trị kìm hãm tự do, dân chủ và chia rẽ dân tộc”. Họ “kiến nghị”
“thay đổi Cương lĩnh, từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội,
chuyển hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế
chính trị từ toàn trị sang dân chủ…”; lập luận: việc tổ chức ra lực lượng vũ
trang chỉ là để bảo vệ lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia. Bởi thế, Quân đội,
Công an phải trung lập, đứng ngoài chính trị, không phải chịu sự lãnh đạo của bất
kỳ đảng phái nào… Từ đó, chúng “khuyên” Quân đội và Công an chỉ nên đứng ngoài
cuộc đấu tranh chính trị của các đảng phái nhằm giành quyền kiểm soát các cơ
quan quyền lực nhà nước… Các quan điểm, tư tưởng trên là hết sức phi lý, thiếu
chính xác, phản ánh sai sự thật. Thực tiễn đã chứng minh “Thành tựu to lớn của
công cuộc đổi mới từ năm 1986 đến nay đã chứng minh tính đúng đắn của đường lối
đổi mới mà Đại hội VI đề ra và các đại hội tiếp theo bổ sung, phát triển. Đại hội
XIII của Đảng (1-2021) đã khẳng định những thành tựu cơ bản. Đó là thước đo sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng, Nhà nước và vai trò quyết định của Cương lĩnh, đường
lối” (31). Để đấu tranh bảo vệ Cương lĩnh cần phát huy vai trò của hệ thống
chính trị và toàn thể nhân dân tham gia bảo vệ Cương lĩnh “Tăng cường bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng, phát huy vai trò, trách nhiệm của tổ chức đảng, cơ
quan, tổ chức trong hệ thống chính trị, các cơ quan báo chí và nhân dân trong bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch”(32)
; kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng gắn với thực hiện Nghị quyết số 35-
NQ/TW, ngày 25-10-2018 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 37-NQ/TW của Bộ Chính trị
về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030; bồi dưỡng, nâng cao
trình độ lý luận, thực tiễn đội ngũ làm công tác chuyên trách bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng; đầu tư cơ sở vật chất, chính sách đãi ngộ thỏa đáng để phát
huy hiệu quả lực lượng này “Đầu tư thích đáng cho việc xây dựng, phát triển đội
ngũ cán bộ lý luận; có chế độ, chính sách thỏa đáng nhằm thu hút, trọng dụng
các chuyên gia đầu ngành”(33); xây dựng luận cứ khoa học đấu tranh bảo vệ Cương
lĩnh của Đảng; nâng cao chất lượng, hiệu quả các chuyên trang, chuyên mục,
fanpage, blog, tài khoản mạng xã hội (Zalo, Facebook…) về bảo vệ Cương lĩnh của
Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái; tiến hành rà soát, củng cố, liên
kết, phát huy hiệu quả hoạt động của: các học viện, nghiên cứu, Hội đồng Lý luận
Trung ương, hệ thống các Trường chính trị, Tạp chí Cộng sản, đội ngũ cán bộ
nghiên cứu lý luận của Đảng từ Trung ương đến cơ sở; xử lý nghiêm các tổ chức,
cá nhân vi phạm nội dung phát ngôn “tăng cường định hướng thông tin, xử lý
nghiêm các tổ chức, cá nhân lợi dụng Internet, mạng xã hội để xuyên tạc sự thật,
kích động, gây rồi, chia rẽ đoàn kết nội bộ. Quản lý và đề cao trách nhiệm của
cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên trong việc lập và sử dụng mạng xã hội
trên Internet”(34); thường xuyên nắm bắt, theo tình hình tư tưởng, kịp thời định
hướng dư luận xã hội…
NHB - H3
0 nhận xét:
Đăng nhận xét