Mùa
Xuân năm 1975, với sức mạnh thần tốc, táo bạo, bất ngờ, quân và dân ta
bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đã thừa thắng xông tới, giải
phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Chiến thắng này đã
khép lại cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc ta ròng rã gần 1/3
thế kỷ (1945 – 1975) kể từ khi thực dân Pháp nổ súng gây hấn trở lại
Nam Bộ; trong đó, hơn 1/5 thế kỷ (1954 – 1975) chống đế quốc Mỹ can
thiệp và xâm lược miền Nam. Đó là mốc son đánh dấu cuộc Cách mạng giải
phóng dân tộc của nhân dân ta dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng đã hoàn
thành, thực hiện được những mục tiêu vĩ đại: dân tộc độc lập, Tổ
quốc thống nhất, nhân dân ta có cuộc sống trong hòa bình, tự do và
làm chủ đất nước. Cũng từ đây, một trang sử mới đã mở ra, một nước
Việt Nam của người Việt Nam, sạch bóng quân xâm lược, đi vào hàn gắn
vết thương chiến tranh và xây dựng cuộc sống mới.
Đại
thắng mùa Xuân năm 1975 là đại thắng của toàn dân tộc; của đức hy
sinh, lòng dũng cảm và trí tuệ Việt Nam kết tinh bởi mưu lược sáng
suốt, tầm nhìn chiến lược của Đảng và ý chí anh hùng, bất khuất
của nhân dân ta. Với niềm tin “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!” và
hành động muôn người như một, “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, “dám
đánh, quyết đánh, biết đánh và biết thắng”, chúng ta đã làm nên chiến
thắng. Sự sống mạnh hơn cái chết. Chính nghĩa đẩy lùi phi nghĩa. Đó
là chiến thắng của cái thiện lớn nhất đối với cái ác lớn nhất
trong thời đại ngày nay. Dân tộc Việt Nam với chiến công của mình đã
đứng vào hàng ngũ các dân tộc tiên phong trên thế giới chống Chủ nghĩa
đế quốc, chủ nghĩa thực dân, chiến đấu cho sự tồn tại của mình mà
cũng vì sự tồn tại của các dân tộc khác; vì độc lập - tự do - hạnh phúc,
xứng đáng với quyền sống, quyền tự quyết để khẳng định và bảo vệ
phẩm giá làm người. Chứng kiến sự kiện có một không hai này trong
lịch sử anh hùng và bi tráng của Việt Nam trong thế kỷ XX, cả loài
người tiến bộ và bạn bè của chúng ta ở khắp năm châu bốn biển đều
thấy rõ, chiến thắng này không chỉ đem lại hòa bình, độc lập, thống
nhất cho Việt Nam mà còn có sức mạnh cổ vũ các dân tộc đấu tranh cho
tự do và công lý, thức tỉnh lương tri của nhân loại.
Sức
mạnh Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là kết quả của sự
phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Sức mạnh dân tộc
được tạo ra bởi đại đoàn kết toàn dân tộc, được nuôi dưỡng bởi ngọn
nguồn văn hóa Việt Nam, lịch sử anh hùng, bất khuất trong hàng ngàn
năm dựng nước và giữ nước. Sức mạnh ấy được tiếp nối, phát
huy cao độ và thăng hoa trong thời đại Hồ Chí Minh - thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử hàng ngàn
năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
Ở
thời khắc lịch sử đó, ngày 30-4-1975, tự đáy lòng của mỗi người dân
Việt Nam yêu nước và tự hào dân tộc đã cất lên tiếng hát “Như có Bác
Hồ trong ngày vui đại thắng” để cùng tưởng nhớ công lao to lớn của Người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh với niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh đại đoàn kết của
dân tộc đã nhận định đúng đắn, chính xác: Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước của nhân dân ta dù phải kinh qua nhiều gian khổ, hy sinh nhưng nhất
định chúng ta sẽ đến ngày thắng lợi hoàn toàn. Cách mạng Việt Nam
nhất định thắng. Đế quốc Mỹ xâm lược nhất định thua; “đánh cho Mỹ
cút, đánh cho ngụy nhào”. Dự báo, trù tính và niềm tin đó của Người
đã truyền cảm, là chỉ dẫn cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân hành động và đã
thành hiện thực. Để hôm nay đất nước vững bước trên con đường lớn
của lịch sử: độc lập dân tộc và CNXH.
Chiến
thắng lịch sử 30-4-1975 như một kỳ tích, một huyền thoại mang tầm
vóc thời đại ở thế kỷ XX. Hơn 44 năm đã trôi qua, kể từ ngày miền
Nam được hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc thống nhất, thời gian càng
lùi xa, thì Chiến thắng 30-4-1975 của dân tộc Việt Nam càng nổi bật
tầm vóc và ý nghĩa lịch sử của nó. Các thế hệ người Việt Nam càng
cảm nhận đầy đủ và sâu sắc hơn giá trị và bài học của chiến công
chói lọi này. Hơn bất cứ một dân tộc nào trên thế giới, nhân dân Việt Nam
luôn thiết tha với hòa bình, khát vọng tự do và hạnh phúc, không bao
giờ mong muốn chiến tranh. Nhưng, vì sinh mệnh và sự tồn vong của dân
tộc, cũng vì nghĩa vụ cao cả, thiêng liêng đối với quốc tế mà nhân
dân ta, cả hai miền Nam - Bắc, tiền
tuyến và hậu phương buộc phải cầm súng quyết chiến đấu và quyết
chiến thắng. Để hôm nay mọi người Việt Nam được sống trong hòa bình, tự do
mưu cầu hạnh phúc, phát triển, bạn bè quốc tế đến làm ăn, sinh sống, thăm thú
trong thanh bình, điều đó chẳng quý lắm sao? Có được hòa bình như ngày hôm nay,
dân tộc ta đã phải trả bằng máu và nước mắt, nên chúng ta rất thấm thía giá trị
này. Ai đó, vì bất cứ lý do gì, gây mất ổn định, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn
dân tộc Việt Nam là có tội với đất nước, với anh linh của hàng triệu đồng bào
và chiến sĩ đã hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc.
Chiến
thắng 30-4-1975 là sự tôn vinh sức mạnh và niềm tự hào của mỗi người
Việt Nam, của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam. Nhưng đâu đó, vẫn cất lên
tiếng nói từ những người mang ý thức hệ xa lạ với nhân dân và dân
tộc mình, coi đó là ngày “quốc hận” -
một cái nhìn sai lạc và xuyên tạc sự thật lịch sử, đi ngược lại
tinh thần khoan dung, đồng thuận, đoàn kết của toàn dân ta; tự reo rắc
hận thù, chia rẽ, ngược với trào lưu lịch sử. Song, sự thật những gì
diễn ra ở miền Nam suốt hai thập kỷ đã tự nó nói lên tất cả về
cái tồn tại trong quá khứ của chính thể Việt Nam Cộng hòa do Mỹ
dựng lên. Đã không có độc lập, tự chủ thì chỉ là lệ thuộc. Giải
phóng miền Nam, xóa bỏ một trật tự lỗi thời, một sản phẩm trái
mùa của lịch sử là một thắng lợi của chính nghĩa, đem lại độc lập,
tự do thật sự cho nhân dân. Nuối tiếc cái đã lùi vào dĩ vãng để
gieo rắc ý thức “quốc hận” là xa lạ với chính đồng bào, dân tộc
mình. Tư tưởng, quan điểm đó nếu không phải là sự nuôi dưỡng, kích
động sự thù địch, chia rẽ dân tộc một cách có chủ đích thì cũng
là một nhận thức mơ hồ về sự thật lịch sử, đều tiếp tay cho kẻ
thù, có hại cho tinh thần hòa hợp, đoàn kết dân tộc, cần phải phê
phán. Đó là điều thứ hai cần nói tới trong tư duy phê phán của
chúng ta.
Chiến
thắng 30-4-1975 là kết quả tiệm tiến và nhảy vọt của biết bao tích lũy, trải
nghiệm, hy sinh của cả dân tộc, của các thế hệ, của sức mạnh tổng hợp và tổng lực
của toàn dân, toàn quân. Đó là một tất yếu, sự lựa chọn của lịch sử dành cho Đảng
Cộng sản Việt Nam, vì đã có đường lối cách mạng đúng đắn. Sẽ không có thành
công nào, khi mà đường lối, chính sách đi ngược lại nguyên vọng, lợi ích của
nhân dân. Đó là thực tế. Tỏa sáng từ Chiến thắng đó ta thấy, không có sự lãnh đạo
của Đảng, được dẫn dắt bởi thiên tài tư tưởng Hồ Chí Minh, không thể
có thành quả chiến thắng và cơ đồ sự nghiệp như ngày nay. Đó
là điều thứ ba cần phải nhấn mạnh trên tinh thần tôn trọng sự thật
và lẽ phải.
Ngày
nay, đất nước ta đã đi qua chặng đường đổi mới hơn 33 năm. Chiến thắng
giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc cũng đã hơn 44 năm. Các thế
hệ sinh thành trong bối cảnh ấy đã tận hưởng giá trị của hòa bình,
độc lập, tự do, hạnh phúc mà các thế hệ cha anh đã phải hy sinh
bằng máu của mình. Thế và lực của Việt Nam đang ở vào thời kỳ sung
sức đầy triển vọng. Đổi mới nhằm đạt tới “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh” như tâm nguyện của Bác Hồ. Để thực hiện
được mục tiêu cao cả đó, hơn lúc nào hết dân chủ -
đoàn kết - đồng thuận là động lực cho sự
phát triển của nước ta, cho dân tộc Việt Nam vươn tới trình độ một dân
tộc thông thái, xã hội Việt Nam là một xã hội văn hóa cao. Cán bộ, đảng
viên tích cực học tập, rèn luyện theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh;
đẩy mạnh hơn nữa công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Trung ương
4 (khóa XI) để Đảng luôn xứng đáng với vai trò là người lãnh đạo.
Chiến
thắng 30-4-1975 sẽ mãi mãi tiếp thêm năng lượng, tinh thần, phát huy
các giá trị sáng tạo, cổ vũ nhân dân và dân tộc ta đi tới, hướng
tới phát triển bền vững và hiện đại hóa trong công cuộc đổi mới, trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
=Tia chớp=
0 nhận xét:
Đăng nhận xét