Hướng đến ngày 26
tháng 3, ngày thành lập Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Vào những ngày
này của tháng 3 hàng năm, chúng ta lại tự hào nhớ lại những anh hùng ở tuổi
đoàn viên, thanh niên. Họ yêu tổ quốc, tin vào cách mạng, không ngại hi sinh
thân mình vị độc lập, tự do của tổ quốc. Để chúng ta nhớ lại các anh hùng dân tộc
trẻ tuổi của nước chúng ta thời kháng chiến, cứu quốc, tôi xin nhắc lại tên các
anh một lần nữa để chúng ta cùng suy ngẫm.
1. Lý Tự Trọng (1914-1931), tên thật Lê Hữu Trọng, hay
còn gọi là Huy quê gốc ở Hà Tĩnh nhưng sinh ra ở Thái Lan và từng học tập ở
Trung Quốc. Năm 1929, anh về nước hoạt động với nhiệm vụ thành lập Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và làm liên lạc cho xứ uỷ Nam Kỳ với Đảng Cộng
sản Việt Nam. Ngày 9/2/1931, trong buổi kỷ niệm một năm cuộc bạo động Yên
Bái, Lý Tự Trọng bắn chết tên thanh tra mật thám Lơ Gơrang rồi bị bắt. Tại
phiên tòa xét xử, anh tuyên bố: “Con đường của thanh niên chỉ là con đường cách
mạng, không thể có con đường nào khác”. Ngày 21/11 cùng năm, trước khi lên
máy chém, chàng trai 17 tuổi đã hô tên Việt Nam và hát bài Quốc tế ca, giữ vững
tinh thần cách mạng đến phút cuối đời.
2. Nguyễn Văn Cừ (1912-1941), quê Bắc Ninh, tham gia
cách mạng từ năm 15 tuổi. Ông từng bị Pháp bắt, đày đi Côn Đảo. Năm 1936,
sau khi được thả tự do, Nguyễn Văn Cừ tiếp tục hoạt động cách mạng bí mật ở Hà
Nội. Ông được bầu làm Tổng bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương khi mới 26 tuổi.
Tháng 6/1940, ông bị thực dân Pháp bắt, kết án tử hình và bị xử tử vào ngày
28/8/1941. Hy sinh khi còn rất trẻ, nhưng Nguyễn Văn Cừ đã có những đóng góp
quan trọng vào cách mạng Việt Nam. Tác phẩm Tự chỉ trích của ông góp phần
lớn trong công tác sửa đổi lối làm việc, khơi dậy ý thức tự tu dưỡng và tự rèn
luyện của thanh niên lúc bấy giờ.
3. Nguyễn Văn Trỗi (1940-1964), quê Quảng Nam, tham gia Biệt động thành khi gia đình chuyển vào Sài Gòn. Ngày 2/5/1964, anh thay đồng đội nhận nhiệm vụ đặt mìn ở cầu Công Lý ám sát phái đoàn quân sự chính trị cao cấp của Mỹ do bộ trưởng Bộ quốc phòng Hoa Kỳ Robert McNamara và đại sứ Henry Cabot Lodge đến thăm Việt Nam Cộng hòa. Việc bại lộ, anh bị bắt ngày 9/5/1964. Tòa án quân sự chính quyền Việt Nam Cộng hòa kết án tử hình, ra lệnh xử bắn Nguyễn Văn Trỗi vào ngày 15/10/1964 tại khám Chí Hòa. Trong những phút cuối đời, anh không đồng ý bịt mắt, xưng tội và hô vang khẩu hiệu quyết chiến.
4. Võ Thị Sáu (1933-1952) sinh ra trong gia đình nghèo ở tỉnh Bà Rịa. Trải qua nhiều thử thách, năm 14 tuổi, chị được kết nạp vào Đội Công an xung phong quận Đất Đỏ. Trong quá trình hoạt động, chị Sáu luồn sâu vào vùng địch tạm chiếm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ liên lạc, nắm tình hình, cung cấp và báo cáo kịp thời cho tổ chức nhiều tin tức quan trọng. Tháng 2/1950, Võ Thị Sáu dùng lựu đạn tấn cônghai tên ác ôn thất bại và bị bắt. Chị bị đày ra Côn Đảo chờ ngày xử tử. Tại đây, chị Sáu được Chi bộ nhà tù Côn Đảo kết nạp chính thức vào Đảng Lao động Việt Nam. Ngày 23/1/1952, trên pháp trường, Võ Thị Sáu vẫn giữ vững khí thế hiên ngang, nhìn thẳng vào họng súng kẻ thù, hô to: “Đả đảo thực dân Pháp, Việt Nam muôn năm, Hồ Chí Minh muôn năm!”.
5. Nguyễn Viết Xuân (1933-1964) là con gia đình nghèo ở
Vĩnh Phúc. Năm 1952, anh nhập ngũ, trở thành chiến sĩ trinh sát, từng giữ chức vụ tiểu đội
trưởng trinh sát, trung đội trưởng pháo cao xạ trước khi làm chính trị viên đại
đội. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Nguyễn Viết Xuân anh dũng chiến đấu, cùng
đồng đội giành chiến thắng. Năm 1964, Mỹ ném bom miền Bắc. Bất chấp nguy hiểm, Nguyễn Viết Xuân lao ra khỏi công sự, đứng bên khẩu đội 3
đĩnh đạc hô lớn: “Nhằm thẳng quân thù, bắn!”. Bị thương nặng, thiếu úy trẻ
thản nhiên bảo y tá cắt chân, chỉ định người thay thế, bình tĩnh phân công nhiệm
vụ trước khi hy sinh.
6. Trần Văn Ơn (1931-1950) là con của một công chức
nghèo ở tỉnh Bến Tre. Năm 16 tuổi, anh tham gia phong trào học sinh yêu nước,
là thành viên chủ chốt trong phong trào học sinh yêu nước của trường Pétrus
Ký. Ngày 9/1/1950, lính Pháp nổ súng vào cuộc biểu tình của học sinh. Anh dũng cảm
che chở cho các bạn chạy thoát và anh dũng hy sinh. Hàng chục nghìn người dân
Sài Gòn đã xuống đường dự đám tang Trần Văn Ơn. Sau này, ngày 9/1 được lấy làm
ngày truyền thống học sinh, sinh viên Việt Nam.
7. Vừ A Dính (1934-1949) sinh ra trong gia đình người
Mông ở tỉnh Lai Châu. Anh giác ngộ cách mạng từ rất sớm, trở thành đội
viên liên lạc của đội vũ trang huyện Tuần Giáo khi mới 13 tuổi. Trong một lần
làm nhiệm vụ, Vừ A Dính bị giặc bắt. Đòn roi tra tấn dã man không thể khiến chiến
sĩ nhỏ tuổi khuất phục. Ngày 15/6/1949, quân Pháp bắn chết Vừ A Dính.
8. Cù Chính Lan (1930-1951) sinh ra ở Nghệ An. Năm
1946, anh gia nhập Vệ quốc đoàn. Ngày 13/12/1951, trong trận tấn công cứ
điểm Giang Mở, tiểu đội trưởng Cù Chính Lan dũng cảm đuổi theo, thả lựu đạn đã
rút chốt vào xe tăng địch. Ngày 29/12/1951, trong trận đánh đồn Cô Tô, anh bị
thương nặng nhưng vẫn phá mở hàng rào thép gai, dốc hết tinh thần chiến đấu và
hy sinh ngay khi trận đánh kết thúc. Năm đó, anh vừa tròn 20 tuổi, là tiểu đội
trưởng bộ binh, Đại đoàn 304, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
9. Đặng Thùy Trâm (1942-1970) sinh ra trong gia đình
trí thức ở Hà Nội. Năm 1966, sau khi tốt nghiệp loại ưu, chị xung phong
vào chiến trường miền Nam. Sau 3 tháng hành quân, tháng 3/1967, Thùy Trâm đến
Quảng Ngãi và được phân công về phụ trách bệnh viện huyện Đức Phổ. Ngày
27/9/1968, chị được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 22/6/1970, trong
một chuyến công tác từ vùng núi Ba Tơ về đồng bằng, Đặng Thùy Trâm bị địch phục
kích và hy sinh khi chưa đầy 28 tuổi. Cuộc đời chị qua những dòng nhật ký là tấm
gương sáng cho thế hệ trẻ phấn đấu noi theo.
10. 10 cô gái ngã ba Đồng Lộc: Võ Thị Tần (24 tuổi, tiểu đội trưởng), Hồ Thị Cúc (24 tuổi, tiểu đội phó), Nguyễn Thị Nhỏ (24 tuổi), Dương Thị Xuân (21 tuổi), Võ Thị Hợi (20 tuổi), Nguyễn Thị Xuân (20 tuổi), Hà Thị Xanh (19 tuổi), Trần Thị Hường (19 tuổi), Trần Thị Rạng (18 tuổi), Võ Thị Hà (17 tuổi), là các nữ thanh niên xung phong tuổi từ 17 đến 24. Các cô thuộc Tiểu đội 4, Đại đội 552, có nhiệm vụ canh giữ giao điểm, phá bom và sửa đường thông xe khi bị bom đánh phá trên tuyến đường mòn Hồ Chí Minh đoạn qua xã Đồng Lộc, huyện Can Lộc, Hà Tĩnh. Ngày 24/7/1968, 10 cô làm nhiệm vụ như mọi ngày. 16h30, trận bom thứ 15 trong ngày dội xuống Đồng Lộc, một quả bom rơi xuống ngay sát miệng hầm, nơi 10 cô gái trẻ đang tránh bom. Tất cả đã chết khi tuổi đời còn rất trẻ, phần lớn trong số họ chưa lập gia đình.
Như chúng ta đã biết không một quốc gia nào lại có nghĩa trang liệt sỹ đến cấp xã và nhiều như Việt Nam đó là minh chứng thể hiện tinh thần yêu nước bất diệt của con em Việt Nam sẵn sàng hi sinh vì tổ quốc, trong đó có những anh hùng là đoàn viên ưu tú của Việt Nam. Chúng ta là những người con của Việt Nam được sống trong hòa bình như bây giờ. Chúng ta phải biết trân trọng và phát huy tinh thần yêu nước đó bằng hành động cụ thể như tích cực học tập nâng cao trình độ, phát triển kinh tế, tự phê bình và phê bình đẩy lùi tham nhũng, phòng chống dịch bệnh hiệu quả… và đấu tranh chống lại các luận điệu xuyên tạc, chống phá cách mạng nước ta, không bị lợi dụng, dỗ lôi kéo./.
PCT-BC
0 nhận xét:
Đăng nhận xét