Biết cách dùng người là việc lớn, có ý nghĩa, thể hiện tầm trí tuệ, tài năng lãnh đạo lớn nhất của người lãnh đạo. Lịch sử dân tộc cho thấy, trong các triều đại phong kiến Việt Nam, những bậc “minh quân” luôn mong muốn có nhiều nhân tài, cùng góp công sức và trí tuệ để xây dựng triều đại thịnh trị, làm cho “Quốc thái dân an” như: Vua Lê Thái Tổ trong “Chiếu Cầu hiền” đã viết: “Người tài ở đời cố nhiên là không ít, nên đường lối tìm người cũng không phải có một phương”. Các vương triều đã có nhiều cách khác nhau để phát hiện và tuyển chọn nhân tài ra giúp nước như thi tuyển, tiến cử và tự tiến cử; trong đó phương thức tự tiến cử là hình thức thường xuất hiện nhiều, những khi đất nước gặp khó khăn, nhân tài muốn đem tài năng của mình để giúp nước, cứu dân.
Đối với Chủ tịch
Hồ Chí Minh cũng vậy, chọn người tài đức tham gia việc nước nói chung, chọn người
tài làm tướng nói riêng, thể hiện tư duy chuẩn mực trong sử dụng cán bộ của Người.
Đầu tiên là con
mắt nhìn ra tướng tài
Khi gặp Võ
Nguyên Giáp lần đầu tiên năm 1940 tại Côn Minh (Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc đã
khen ông Giáp về dung mạo. Sau này nhiều người thắc mắc, thời kỳ đó có hàng chục
học viên tốt nghiệp ở Trường quân sự Hoàng Phố (Trung Quốc) được đào tạo bài bản
về quân sự nhưng lại không được chọn làm người chỉ huy quân sự. Vì sao lãnh tụ
Hồ Chí Minh chọn giao cho một nhà giáo dạy trường tư thục Thăng Long, thuộc
hàng “bạch diện thư sinh”, đảm nhiệm việc thành lập và chỉ huy Đội Việt Nam
Tuyên truyền Giải phóng quân?
Chỉ có một người
trả lời được câu hỏi đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh! Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng
không trả lời được thắc mắc này. Ông nói: “Không hiểu sao Bác lại chọn tôi. Trước
đó, trong quá trình hoạt động, Bác dặn tôi: Khi đi vận động tuyên truyền, chú
phải để ý thêm về quân sự”.
Ngày 20.1.1948,
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 110/SL, phong cấp hàm Đại tướng cho ông Võ
Nguyên Giáp - Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và Dân quân tự vệ. Võ Nguyên Giáp
trở thành vị đại tướng đầu tiên của quân đội.
Sau này, nhà
nghiên cứu quân sự người Anh, ông Peter McDonald, đánh giá: “Võ Nguyên Giáp
trong 30 năm liền vẫn là Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang và trong gần 50
năm, vẫn tham dự những hội nghị chính trị ở cấp cao nhất của đất nước. Đó là
hai sự kiện vô song trong lịch sử. Chúng ta khó mà so sánh ông với các tướng
lĩnh khác về sự điều hành ở tầm cao của cuộc chiến tranh du kích và ở những cuộc
hành binh lớn”.
Với thiếu tướng
Lê Thiết Hùng, từ trên Chiến khu Cao - Bắc - Lạng còn hoạt động bí mật, khi
trao nhiệm vụ Nam tiến, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc dặn: “Chú Văn phải chú trọng
thêm quân sự, chú Hùng phải chú trọng thêm chính trị”. Đến khi Chính phủ tổ chức
Đội Tiếp phòng quân và cử ông làm thiếu tướng chỉ huy (1946), Hồ Chủ tịch dặn
tiếp: “Trước đây, trên chục năm chú sống trong quân đội Tưởng đầy chông gai, cạm
bẫy, “chất thép” trong con người chú đã được tôi luyện già dặn. Nay, vào cuộc
chiến đấu mới, đối mặt với thực dân xâm lược Pháp, phải thêm “chất hùng” của
dân tộc ta nữa. Bác đã nghĩ kỹ, chọn cho chú cái tên mới: Lê Thiết Hùng”.
Sử dụng tướng
tài vào vị trí phù hợp
Một phẩm chất
quan trọng của những vị tướng trong đợt phong quân hàm đầu tiên đó là khí chất
anh hùng hảo hán. Những danh tướng này có tài năng, song cũng không phải không
có những khiếm khuyết của tính cách đời thường “dọc ngang nào biết trên đầu có
ai”. Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu ưu điểm và cả nhược điểm của họ để sử dụng từng
vị tướng vào công việc phù hợp. Đại tướng Chu Huy Mân kể lại ông từng phải đứng
lò cò một chân rất lâu khi vào làm việc với Bác. Đó một bài học nhớ đời về người
làm tướng phải chú trọng cả quân sự và chính trị, chứ không thể thiên lệch một
bên nào. Bí danh Hai Mạnh gắn với Đại tướng Chu Huy Mân từ đó.
Chủ tịch Hồ Chí
Minh không quên sử dụng tướng tài vào vị trí phù hợp. Năm 1946, từ nước Pháp trở
về, Người đã đồng ý để 4 nhà khoa học về cùng. Đó là những chuyên gia về luyện
kim, vũ khí và y khoa mà đất nước đang cần cho cuộc kháng chiến. Còn những triết
gia hay thi nhân, Hồ Chủ tịch đề nghị họ cứ ở lại Pháp, chờ có cơ hội thích hợp
thì về nước. Trước mắt, họ vẫn tích cực tham gia phong trào Việt kiều yêu nước
để ủng hộ cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc ở quê nhà.
Một trong 4 nhà
khoa học theo Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước là kỹ sư Trần Đại Nghĩa. Ông được
phong thiếu tướng đợt đầu tiên năm 1948. Đến kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thiếu
tướng Trần Đại Nghĩa đang được biệt phái sang công tác nghiên cứu khoa học. Hồ
Chủ tịch nhắc nhở những người đứng đầu Ban tổ chức Trung ương và Bộ Quốc phòng:
“Tôi đem chú Nghĩa về để kháng chiến. Bây giờ cuộc kháng chiến vô cùng ác liệt,
chưa biết diễn biến sẽ ra sao. Chú Nghĩa đang ở Hà Nội, tại sao không mời chú ấy
tham gia công tác quốc phòng”.
Sau đó, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã chỉ định ông Trần Đại Nghĩa làm Phó chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần.
Mấy tháng sau, có ý kiến của Ban tổ chức Trung ương cho rằng ông Trần Đại Nghĩa
làm 3 nhiệm vụ một lúc thì nặng quá, cho nên chức vụ Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học
kỹ thuật nhà nước để cử người khác thay.
Biết chuyện, Chủ
tịch Hồ Chí Minh không đồng ý. “Chú Nghĩa hồi kháng chiến chống Pháp làm bao
nhiêu nhiệm vụ mà cũng làm được (Cục trưởng Cục Quân giới, Cục trưởng Cục trưởng
pháo binh, Thứ trưởng Bộ Công thương). Tại sao sau mấy chục năm, chú ấy lại
không làm được 3 việc?”.
Có thể nói, Chủ
tịch Hồ Chí Minh là một mẫu mực tuyệt vời, tiêu biểu nhất về việc trọng dụng
nhân tài. Tư tưởng tìm và trọng dụng người tài nói chung, tướng tài nói riêng
vào công việc quốc gia đại sự của Bác cần tiếp tục được quán triệt và phát huy
để đội ngũ cán bộ của chúng ta ngày càng trưởng thành, lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu
sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc./.
NĐV-H2
0 nhận xét:
Đăng nhận xét