Tháng 9 năm 1977,
Trong một cuộc nói chuyện với đại sứ Việt Nam tại Campuchia Dân chủ Phạm Văn
Ba, Pol Pot đã ngạo mạn hỏi: "Đồng chí có thực sự tin rằng Camphchia có thể
chinh phục hay đô hộ Việt Nam không ?"
"Một lính
Campuchia ngang bằng với 30 lính Việt Nam. Vậy cần bao nhiêu người Việt Nam để
sánh với 10 người lính Campuchia? Câu trả lời là 300. Và cứ như vậy, 100 người
Campuchia sẽ bằng 3000 người Việt Nam. Và, 1 triệu người Campuchia sẽ ứng với
30 triệu người Việt Nam. Chúng ta hiện có 2 triệu quân, đủ để đối phó với 60
triệu người Việt Nam. Thế nhưng, 2 triệu quân là quá đủ, bởi vì Việt Nam chỉ có
50 triệu dân thôi. Chúng ta không việc gì cần phải huy động 8 triệu người.
Chúng ta chỉ cần 2 triệu quân để đè bẹp 50 triệu người, và thế là chúng ta vẫn
còn 6 triệu người". [1]
Từ giữa năm 1975,
các tàu Trung Quốc chở gạo bắt đầu thường xuyên ghé cảng Kompongsom
(Sihanoukville). Gạo viện trợ của Trung Quốc cấp tập tới Campuchia từ tháng
7/1975, trung bình có khoảng 25- 30 toa tầu chở gạo được bốc dỡ mỗi ngày. Năm
1975, ngoài 61.000 tấn gạo, Trung Quốc còn cung cấp cho Khmer Đỏ 30.000 tấn
nhiên liệu và dầu nhờn, 3.000 tấn dầu hỏa, 3 máy phát điện diesel, 300 xe tải,
9000 tà vẹt, 1000 đơn vị thiết bị đường sắt, 250 tấn thuốc trừ sâu, 8 triệu cuốc,
2.600 tấn lưỡi cày, 237.000 xẻng, 60 tấn thuốc, 20.000 xe đạp, 3.300 tấn quần
áo, 200 máy may.
Tháng 2/1976, một
phái đoàn quân sự Trung Quốc do Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Giải phóng
Nhân dân Trung Quốc, Vương Thương, người đã ký kết một thỏa thuận bí mật về hợp
tác quân sự với Bộ trưởng Quốc phòng Campuchia Dân chủ. Theo như bản thỏa thuận
này, Trung Quốc cam kết chuyển giao cho Khmer Đỏ các thiết bị cho 1 trung đoàn
pháo phòng không, 1 trung đoàn radar, 1 tiểu đoàn công binh, thiết bị cho sân
bay quân sự, tàu tuần tra và tàu cao tốc cho Hải quân, thiết bị cho 1 trung
đoàn xe tăng, 1 trung đoàn thông tin liên lạc và ba trung đoàn pháo binh.
Từ tháng 3 đến
tháng 6/1978, các lô máy bay chiến đấu đầu tiên từ Trung Quốc đã được chuyển đến,
gồm 10 máy bay ném bom, 18 máy bay chiến đấu; tổng cộng tất cả các đợt, Trung
Quốc đã giao cho Campuchia 20 máy bay ném bom và 36 máy bay chiến đấu. Đến cuối
năm 1978, Trung Quốc tiếp tục cung cấp cho Campuchia 200 xe tăng, 300 xe bọc
thép, 300 súng pháo và một số lượng lớn thiết bị quân sự khác.
Năm 1978, lực lượng
hải quân của Campuchia Dân chủ có 20 tàu các loại khác nhau, trong đó có 1 tàu
trinh sát được ngụy trang thành tàu buôn. Các chuyên gia Trung Quốc giúp
Campuchia xây dựng các bến nước sâu, một bãi sửa chữa tàu và một trung tâm điều
khiển tàu chiến tại căn cứ Hải quân Ream thuộc tỉnh Sihanoukville.
Với sự giúp đỡ của
Trung Quốc, quân đội Campuchia tăng nhanh chóng về số lượng: Nếu vào tháng
4/1975, Khmer Đỏ có 6 sư đoàn, thì một năm sau đó đã tăng lên 11 sư đoàn và đến
tháng 12/1978, có 26 sư đoàn, trong đó phần lớn đóng quân ở biên giới với Việt
Nam [2].
Từ đầu năm 1977 đến
1978, sau khi mở nhiều cuộc xâm lấn quy mô vào sâu các tỉnh dọc tuyến biên giới
của Việt Nam, gây ra nhiều tội ác khủng khiếp cho số lớn là dân thường. Sau những
lời tuyên truyền xuyên tạc, lãnh đạo Khmer Đỏ nhận định rằng quân đội VN giờ
đây đã không còn mạnh vì vậy cần phải chủ động tiến đánh VN trước và liên tục.
"Kẻ thù của
chúng ta đã không còn sở hữu một đội quân thứ năm trong nội bộ đảng và trong
nhân dân của chúng ta, để xúi giục các hoạt động phản cách mạng với mục tiêu lật
đổ chế độ, hủy hoại cuộc cách mạng của chúng ta, xóa bỏ Đảng Cộng sản ở
Campuchia, nô dịch người Campuchia, ném quân đội chúng ta vào hỗn loạn và tiêu
diệt nền dân chủ của chúng ta. Trên một bình diện khác, họ lại không còn khả
năng tiến công chúng ta về quân sự từ bên ngoài. Chúng ta phải chủ động tiến
công chúng liên tục trên bất kỳ địa hình nào, đồng thời chấp hành tỉ mỉ các chủ
trương của đảng, cả trên mặt trận nội chính lẫn trên mặt trận ngoại giao… Chúng
ta cần đánh địch tới từ bên ngoài, tác chiến trên mọi chiến trường và dưới tất
cả các hình thức". [3]
Ngày 10/5/1975, lực
lượng Pol Pot tiến công đảo Thổ Chu của VN và bắt đi 515 dân trên đảo. Thực hiện
quyền tự vệ của mình, quân đội ta đã đánh trả và truy kích chúng đến tận nơi xuất
phát là đảo Wai, bắt giữ một số tù binh. Ngày 2/6/1975, đ/c Mười Cúc (Nguyễn
Văn Linh) đi Phnom Penh gặp Pol Pot, Nuon Chea và leng Sary. Ngày 12/6/1975,
Pol Pot thăm bí mật Hà Nội, cho việc họ tấn công đảo Thổ Chu là do “ không rành
địa lý”, đề nghị ký Hiệp ước hòa bình hữu nghị nhưng lờ đi đề nghị của ta về
đàm phán ký Hiệp ước biên giới. Ngày 3/7/1975, đ/c Nguyễn Văn Linh gặp lại Nuon
Chea ở Phnom Penh và ngày 10/ 8/1975, đ/c Nguyễn Văn Linh một lần nữa đi Svay
Rieng gặp Nuon Chea để xử lý vụ đảo Wai và về quan hệ 2 nước, ta đồng ý trao trả
số tù binh CPC (800 lính) bị ta bắt ở đảo Wai nhưng phía họ vẫn không trao trả
cho ta 515 dân bị bắt ở Thổ Chu. [4]
Sau thắng lợi năm
1975, Khmer Đỏ đã tìm cách chinh phạt một phần của Campuchia Krom (trận đánh đầu
tiên của Khmer Đỏ vào đảo Phú Quốc, sau đó là Thổ Chu 10/5/1975) và gây ra những
tội ác khủng khiếp đối với một số lớn những thường dân Việt Nam (kể cả người
già, phụ nữ, trẻ em). Chính quyền Pol Pot đã gạt bỏ tất cả các đề xuất giải quyết
bằng hòa bình mà Hà Nội đưa ra trong nhiều dịp, đặc biệt là ngày 5-2-1978.
Đầu năm 1977, các
cuộc tiến công của Khmer Đỏ sang Việt Nam trở nên khốc liệt nhất và ngày càng
có hệ thống. Hiện giới nghiên cứu nhìn nhận rằng, các cuộc tiến công do phía
Campuchia khởi phát này diễn ra trong suốt năm đó, chủ yếu là đột kích vào các
làng và bắn pháo vào các thị trấn. Thương vong của phía Việt Nam là cực kỳ nặng
nề. Việc tổng hợp những báo cáo nhiều trang trên báo chí và của Trung tâm Lưu
trữ Keesing đã đem lại thống kê sau đây về cuộc xung đột.
Tình hình xấu đi một
cách trầm trọng từ tháng 3-1977. Theo một tài liệu chính thức do phía Việt Nam
công bố ngày 6-1-1978, quân Khmer Đỏ đã đột kích vào các tỉnh Kiên Giang và An
Giang của Việt Nam từ ngày 15 đến 18-3 và từ ngày 25 đến 28-3-1977 trên một khu
vực gần 100km, trải dài từ Hà Tiên (Kiên Giang) tới Tịnh Biên (An Giang). Các
đơn vị mạnh của Khmer Đỏ đã tiến đánh các đồn biên phòng của Việt Nam và các
làng ven biên giới từ ngày 30-4 đến 19-5-1977, giết hại 222 thường dân; bắn
pháo vào Châu Đốc, tỉnh lỵ của An Giang. Quy mô của các cuộc tiến công tăng vọt
vào nửa sau của tháng 9-1977, trùng với thời kỳ Pol Pot đi thăm Trung Quốc và
Triều Tiên. Thông cáo của Việt Nam ngày 6-1-1978 được xác nhận bởi các báo cáo
từ các nguồn tình báo của Mỹ cho hay, từ ngày 24-9 cho đến cuối tháng 11-1977
trở đi, quân đội Khmer Đỏ gồm 4 sư đoàn đã khởi phát các cuộc tiến công lên
toàn dải biên giới thuộc tỉnh Tây Ninh, làm cho hơn 1.000 dân thường Việt Nam
chết hoặc bị thương.
Năm 1978, Son Sen,
Phó thủ tướng phụ trách quốc phòng cho hay, “quân đội cách mạng Campuchia vinh
quang” của ông ta đã có khả năng đối đầu dễ dàng với quân đội của Tướng Giáp,
còn quân đội Thái Lan của Kukrit Pramoj (Thủ tướng Thái Lan lúc đó) thì chẳng
đáng kể gì. [5]
Sau hàng loạt các vụ
tấn công tàn bạo và thảm sát dân thường của Khmer Đỏ vào đất VN, tháng 12/1977,
VN tấn công trả đũa đánh sâu vào đất Campuchia. Nhưng mong muốn hòa bình vẫn là
ưu tiên, nên VN rút quân về và xúc tiến các nỗ lực NGOẠI GIAO, song phương cũng
như đa phương.
Tháng 3/1978, VN
kêu gọi Hội đồng Bảo an LHQ chỉ định nhóm trung gian hòa giải về xung đột biên
giới. Nhưng Tổng thư ký Waldheim đã trao đổi với đoàn VN tại LHQ về việc sẽ rất
khó đạt được đồng thuận trong Hội đồng Bảo an, vì VN cũng phải hiểu rằng Trung
Quốc có thể dùng quyền phủ quyết để phản đối trong bối cảnh quan hệ Việt- Trung
lúc đó đang rất căng thẳng.
Các đề nghị đàm
phán trên của VN tiếp tục được lặp lại vào tháng 4 và tháng 6/1978. Khmer Đỏ
đáp trả bằng việc tiếp tục tấn công qua biên giới gây rất nhiều tổn thất cho
VN. LHQ không có phản ứng.
Tháng 12/1978, VN
không còn lựa chọn nào khác đã tổ chức phản công quân sự đánh sập Khmer Đỏ. Giờ
thì đến lúc LHQ lại trở nên tích cực. [6,7]
Tình thế bất khả
kháng của VN trong vấn đề Campuchia.
(trích dịch từ tài
liệu nghiên cứu của Đại học LHQ (United Nations University- một cơ quan của
LHQ/ [6,7,8] page VNW chia sẻ).
"Cộng đồng quốc
tế đã PHỚT LỜ những nỗ lực của VN về đàm phán hòa bình với Khmer Đỏ. Tháng
12/1978, để đáp trả sự khiêu khích của Khmer Đỏ, quân đội VN đã vượt qua biên
giới, đánh đuổi Khmer Đỏ đến tận biên giới với Thái Lan. Đó là hệ quả của việc
cộng đồng quốc tế đã THẤT BẠI trong việc ủng hộ những giải pháp song phương và
đa phương, đã CHẲNG LÀM GÌ trong giai đoạn CHẾ ĐỘ SÁT NHÂN Khmer Đỏ ngự trị, rồi
sau đó khắp nơi lại lên án việc Việt Nam xâm lược Campuchia giải tán chế độ
Khmer Đỏ tàn bạo, tiếp nối với cuộc 'tấn công trừng phạt' của Trung Quốc vào
biên giới phía Bắc của VN năm 1979"...
Với lý do không chấp
nhận việc chủ quyền của Campuchia bị xâm phạm, cộng đồng quốc tế tiếp tục ủng hộ
tính hợp pháp của Khmer Đỏ, cho giữ ghế tại LHQ trong những năm 80, cô lập
chính quyền do Hunsen lãnh đạo về cả kinh tế và chính trị.
Đối diện với sự án
binh BẤT ĐỘNG của cộng đồng quốc tế và các cuộc tấn công vượt qua biên giới của
Khmer Đỏ, câu hỏi là VN còn lựa chọn thực tế NÀO KHÁC ngoài việc đơn phương
hành động? Chỉ trích tiếp tục đổ xuống đầu VN vì đã phản ứng, đã 'chiếm đóng'
Campuchia một thập kỷ từ sau năm 1978. Nhưng trong khi họ chỉ trích, thì sự hiện
diện của Mỹ ở Thái Lan vẫn là một nguy cơ (với VN), tối thiểu là vũ trang cho
Khmer Đỏ có thể tiếp tục tấn công. Trung Quốc từ sau thất bại mất mặt năm 1979
vẫn ủng hộ Khmer Đỏ và phản đối VN 'xâm lược' Campuchia. Đối diện với việc cộng
đồng quốc tế bị bắt làm CON TIN cho những lợi ích đó (của các nước lớn), còn lựa
chọn NÀO KHÁC cho Việt Nam?"
...
Vẫn là cộng đồng quốc
tế (sau hiệp định Paris năm 1991), đã NHẮM MẮT về việc người Việt thiểu số bị
ngược đãi tại Campuchia. Khmer Đỏ cải tổ có chân trong chính quyền Campuchia tiếp
tục các chiến dịch chống lại người Việt. Hơn 100 thường dân Việt đã bị chúng thảm
sát trong khu vực do lực lượng của LHQ (UNTAC) kiểm soát."
"Còn lựa chọn
NÀO KHÁC cho VN?" Trong thế kỷ 20, VN đã nhiều lần trông đợi vào sự tích cực
của cộng đồng quốc tế cho hòa bình tại Đông Dương, để rồi lại thất vọng.
VN đã chỉ còn cách
duy nhất là dùng sức mình để giải phóng và mang lại hòa bình cho chính mình,
đưa cộng đồng quốc tế tới chỗ phải tôn trọng độc lập- thống nhất cùng các quyền
an ninh hợp pháp của VN". [8]
Sau khi đánh thắng
Khmer Đỏ, phản ứng của các quốc gia Tây phương đã khiến Việt Nam sửng sốt. Đó
là nhận xét của phóng viên Hoa Kỳ Elizabeth Becker.
“Tôi không nghĩ là
phần lịch sử này đã được ghi lại một cách toàn vẹn: Việt Nam đã từng mong đợi rằng,
mình sẽ được hoan hô khi tiêu diệt Khmer Đỏ. Và họ đã rất sốc với thái độ khi ấy
[của phương Tây]. Việt Nam đã trông chờ cả thế giới tuyên dương "Hoan hô
Việt Nam đã dẹp tan chế độ kinh hoàng Khmer Đỏ". Họ hoàn toàn không chuẩn
bị tâm lý cho thái độ thù nghịch đến từ cộng đồng quốc tế sau đó.
Đó thật là một sự
tra tấn tinh thần khi cả thế giới chỉ trích Việt Nam vì họ đã chấm dứt tội ác
diệt chủng và xóa sổ Khmer Đỏ…Nếu quý vị muốn nổi giận, hãy nổi giận với Hoa Kỳ
vì họ đã ủng hộ Khmer Đỏ suốt cả những năm 1980. Nếu quý vị muốn nổi giận, hãy
nổi giận với cả cộng đồng Tây phương vì họ đã từ chối giúp đỡ để Campuchia có
thể hồi sinh. Thay vì ra tay cứu trợ, Hoa Kỳ, Châu Âu, và toàn bộ Tây phương lẫn
ASEAN lại đưa ra các biện pháp chế tài khắc nghiệt và từ chối cho nguồn viện trợ
được nhập vào Campuchia.
Quân đội Việt Nam
nên rút sớm hơn, đó là điều không cần phải hỏi...Tuy nhiên, chỉ mang một mình
Việt Nam ra để chỉ trích cho tất cả các vấn đề [ở Campuchia] thì thật là quá kỳ
quặc”.[9]
--------
Nguồn:
[1] Cambodia's Strategy
of Defence against Vietnam, Phnompenh, 15/5/1978/Trung tâm dữ liệu DC- Cam.
[2] Pol Pot:
Campuchia- Đế chế trên xương người" tác giả Oleg Samorodnyi, trang 137-
140.
[3] Tạp chí Tung
Padevat số ra 4/1977, cơ quan ngôn luận của Khmer Đỏ.
[4] Ghi chép về
Campuchia 1975- 1991, của cựu đại sứ tại Campuchia Huỳnh Anh Dũng.
[5] "Rọi ánh
sáng lên các cội nguồn của cuộc xung đột Campuchia"- The Asia số 12,
4/1980 tác giả BEN KIERNAN
[6] Leighton, 1978.
Perspectives on the Vietnam-Cambodia Border Conflict.
[7] Saving
Strangers: Humanitarian Intervention in International Society. P. 81-82.
[8] Blood and
borders: The responsibility to protect and the problem of the kin-state. P.
158-160.
[9] Forever
Foreign- Michelle Vachon, Chhorn Phearun/Campuchia Daily.
TVV-H4
0 nhận xét:
Đăng nhận xét