Khi bàn về vai trò của Quân đội đối với kinh tế,
C.Mác đã chỉ rõ: “Lịch sử quân đội xác nhận một cách rõ ràng hơn hết sự
đúng đắn quan điểm của chúng ta về mối liên hệ giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ xã hội. Nói chung, quân đội đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh
tế”. Quán triệt quan điểm trên của C.Mác, ngay từ những năm đầu xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước Nga, V.I.Lênin đã quan tâm đến sử dụng quân đội vào nhiệm vụ
xây dựng, phát triển kinh tế. V.I.Lênin chỉ rõ: “Cần phải tập trung toàn lực
vào nhiệm vụ đó, cần phải tung vào những quỹ đạo mới đó toàn bộ lực lượng quân
sự đã biểu lộ rõ tác dụng của mình trong việc xây dựng quân sự. Đó là tình hình
đặc thù, là bước quá độ đặc thù khiến chúng ta nghĩ đến việc tổ chức các đội
quân lao động…”. Trong điều kiện cụ ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có
nhiều bài viết, bài nói chuyện về vai trò của bộ đội trong tham gia sản xuất,
xây dựng kinh tế. Bác đã viết bài “Đời sống mới”, xác định nhiệm vụ và những
hình thức tăng gia, lao động sản xuất cụ thể của các lực lượng quân đội: bộ đội
cũng phải tăng gia sản xuất. Cố nhiên những bộ đội ở trước mặt trận, phải luôn
luôn lo việc đánh giặc, không có thì giờ đâu mà làm việc khác. Song những bộ đội
ở hậu phương thì cần làm, và quyết làm được. Tùy theo hoàn cảnh mỗi bộ đội, hoặc
làm vườn, nuôi lợn, hoặc làm giúp dân. Có lúc bộ đội chia phiên nhau, lớp đánh
giặc, lớp làm ruộng làm vườn, để tự cấp tự túc, không phiền đến dân cả mọi việc.
Ngay từ những
ngày đầu mới thành lập, “Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân”, cùng với
chức năng là đội quân chiến đấu, đội quân công tác, những chiến sĩ của đội đã
phải lao động sản xuất để nuôi sống chính mình và vận động quần chúng nhân dân
làm cách mạng. Với bản chất của một đội quân cách mạng, từ nhân dân mà ra, vì
nhân dân mà chiến đấu, vì nhân dân phục vụ. Sau khi kháng chiến chống Mỹ cứu nước
thắng lợi, cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội, Quân đội đã chuyển sang
làm nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế. Tích cực tham gia vào công cuộc tái
thiết đất nước, hàn gắn vết thương chiến tranh, phát triển kinh tế - xã hội,
trong đó đặc biệt coi trọng những địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, biên
giới, hải đảo. Đây là sự nối tiếp, phát huy truyền thống quý báu của dân tộc
“ngụ binh ư nông”, “tịnh vi nông, động vi binh” trong thời đại mới.
Đất nước bước
vào thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế, Đảng
ủy Quân sự Trung ương ra Nghị quyết số 71/ĐUQSTW ngày 25 tháng 4 năm 2002 về
nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế của Quân đội trong thời kỳ mới - tiếp tục đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Quân đội”. Nghị quyết số
520/QUTW ngày 25 tháng 9 năm 2012 về lãnh đạo nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh
tế kết hợp quốc phòng của Quân đội đến năm 2020”. Thông tư số 69/2017/TT-BQP
ngày 03 tháng 4 năm 2017 của Bộ Quốc phòng ban hành Quy chế Quản lý hoạt động sản
xuất, xây dựng kinh tế của Quân đội. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng trong lãnh
đạo, chỉ đạo Quân đội tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế với những hình thức,
biện pháp phù hợp theo đúng định hướng của Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên,
trong thời gian vừa qua, xuất hiện nhiều ý kiến về việc Quân đội làm kinh tế với
dụng ý xấu, thậm chí có cả sự phủ nhận, xuyên tạc vai trò của Quân đội trong
tham gia lao động sản xuất, phát triển kinh tế, xã hội. Có người do thiếu hiểu
biết, nhưng lại tự cho mình quyền phán quyết những vấn đề thuộc về quốc kế dân
sinh, dẫn đến ngộ nhận; có người cố tình lợi dụng những vấn đề đó để hô hào, cổ
súy, với hy vọng được các thế lực thù địch bên ngoài trọng dụng nhằm thỏa mãn
những tham vọng cá nhân. Từ đó chúng ta có thể nói không phải ai cũng hiểu một
cách tường tận và thấu đáo mục đích, lý do việc Quân đội ta tham gia lao động sản
xuất, phát triển kinh tế. Vì thế, cần phải khẳng định rằng:
Thứ nhất, Quân
đội tham gia lao động sản xuất là một chức năng của Quân đội
Quân đội nhân
dân Việt Nam là quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản, hoàn toàn khác với bản
chất của quân đội các thể chế chính trị, xã hội khác, được thể hiện ở mục tiêu,
lý tưởng chiến đấu, chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ giữa quân đội với nhân
dân, quan hệ cán binh và thực hiện nhiệm vụ quốc tế cao cả. Quân đội của các nước
tư bản chủ nghĩa “là công cụ vững chắc nhất để duy trì sự thống trị của tư bản,
là nhà trường giáo dục một cách nô lệ và sự phụ thuộc của người lao động đối với
tư bản”. Đây là điểm khác biệt cốt yếu của quân đội tư sản với Quân đội ta.
Quân đội của Việt Nam là quân đội của nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân
mà chiến đấu, mục tiêu chiến đấu của Quân đội là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội và nền văn hóa; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia - dân tộc. Ngoài mục tiêu
đó, Quân đội không có mục đích nào khác. Nhưng không vì thế mà phủ nhận vai trò
của Quân đội trong tham gia lao động sản xuất, phát triển kinh tế, xã hội, mà
cùng với chức năng của đội quân chiến đấu, Quân đội ta còn phải thực hiện tốt
chức năng đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất.
Hiện nay, trong
điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, ngân sách đảm bảo cho quốc phòng hạn hẹp,
việc Quân đội tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế đã tạo ra nguồn lực to lớn,
đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước, bảo đảm an sinh xã hội, thực hiện tốt
chính sách hậu phương Quân đội và cải thiện đời sống người lao động, củng cố niềm
tin của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, góp phần làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa
bình”.
Thứ hai, Quân đội
tham gia lao động sản xuất là một nội dung quan trọng đã được quy định trong hiến
pháp.
Điều 68 Hiến
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi năm 2013) ghi rõ: “... kết
hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh...”. Điều
đó cho thấy, việc kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với
kinh tế là quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước ta. Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc
là của toàn dân, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là ở nơi dân, trong đó lực lượng vũ
trang nhân dân làm nòng cốt. Tham gia lao động sản xuất, phát triển kinh tế của
Quân đội cũng chính hướng tới mục tiêu đó.
Tuy nhiên, để
hiểu tường tận vai trò, chức năng tham gia xây dựng kinh tế của Quân đội, cần
có một cách nhìn khách quan, khoa học về vấn đề này. Trước hết, thuật ngữ “quân
đội làm kinh tế” phải được hiểu dưới góc độ tham gia lao động sản xuất, xây dựng
và phát triển kinh tế, xã hội; không được hiểu với nghĩa kinh tế đơn thuần, dù
doanh nghiệp đó sản xuất trong bất cứ lĩnh vực nào. Nhận thức sai lầm, ngộ nhận
dù vô tình hay cố ý đối với thuật ngữ này chính là một sự đánh tráo khái niệm,
nhằm hạ thấp vai trò, uy tín của Quân đội, gây sự hiểu nhầm trong xã hội, chia
rẽ sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Quân đội; giữa Quân đội và nhân dân.
Hơn nữa, mục
tiêu tham gia lao động sản xuất, xây dựng phát triển kinh tế của Quân đội là:
gia tăng sức mạnh của Quân đội và sức mạnh tổng hợp của quốc gia; góp phần xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, trong đó có kinh tế quốc phòng; tận dụng tiềm
lực, tiềm năng của đất nước về mọi mặt; từng bước nâng cao vị thế quốc tế của
Việt Nam. Đây là một nhiệm vụ hết sức nặng nề, khó khăn lại được tiến hành ở những
nơi xa xôi, hẻo lánh, nếu không có các đơn vị quân đội, các doanh nghiệp ngoài
Quân đội khó có thể tiếp cận được. Ở khía cạnh này ta thấy, ngay từ đầu, vấn đề
giữa lợi nhuận và sự toàn vẹn của lãnh thổ, chủ quyền quốc gia, dân tộc đã được
các đơn vị quân đội tham gia lao động sản xuất trả lời một cách dứt khoát. Với
thế mạnh của mình và về nguồn nhân lực, vật tư, trang thiết bị, Quân đội tham
gia sẽ phải gánh vác những nhiệm vụ chính trị xã hội mà các doanh nghiệp, kể cả
doanh nghiệp nhà nước cũng khó có thể đảm đương, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa,
biên giới, hải đảo, những nơi đời sống của nhân dân còn hết sức thiếu thốn, lạc
hậu. Rõ ràng, tham gia lao động sản xuất, phát triển kinh tế, xã hội là một mệnh
lệnh, một nhiệm vụ chính trị của Quân đội. Không chỉ tham gia lao động sản xuất
đơn thuần, mà các đơn vị quân đội còn có thế mạnh là sử dụng nguồn lực có chất
lượng của mình để tổ chức các lớp học văn hóa, giúp nhân dân nâng cao dân trí,
xây dựng kết cấu hạ tầng, như: điện, đường, trường, trạm, cải thiện đời sống
nhân dân, góp phần xây dựng nông thôn mới, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở,
v.v. Có thể nói, những đóng góp của cán bộ, chiến sĩ các đoàn kinh tế - quốc
phòng trên lĩnh vực kinh tế, xã hội, kết hợp giữa phát triển kinh tế, xã hội với
thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng; giữa quân sự, quốc phòng với phát triển
kinh tế, xã hội thời gian qua là rất lớn và không thể phủ nhận.
Thứ ba, chức
năng tham gia lao động sản xuất được khẳng định trong thực tiễn xây dựng,
chiến đấu và trưởng thành của Quân đội.
Hơn 77 năm qua
cho thấy, trong bất cứ điều kiện nào, dù khó khăn đến đâu, Quân đội ta cũng vừa
chiến đấu, vừa lao động sản xuất, tham gia xây dựng kinh tế bằng những hình thức,
biện pháp sáng tạo, phù hợp, hiệu quả. Trong kháng chiến chống Pháp, với vô vàn
khó khăn chồng chất, trước hết là ăn, mặc, tiếp đến là trang bị vũ khí…, nếu
không có các đơn vị quân đội tham gia lao động sản xuất, chế tạo vũ khí, khí
tài, đạn dược…, liệu Quân đội có thể hoàn thành được nhiệm vụ mà Đảng, Tổ quốc
và nhân dân giao phó! Trong chiến tranh chống Mỹ, cứu nước, hậu phương lớn miền
Bắc vừa tiến hành công cuộc cải tạo, phục hồi kinh tế từ một nước sản xuất nhỏ,
manh mún, lạc hậu trong điều kiện chiến tranh, vừa chi viện sức người, sức của
cho chiến trường miền Nam, nếu các đơn vị quân đội không tham gia lao động sản
xuất, không có các căn cứ hậu cần tại chỗ trên chiến trường miền Nam, nhất là ở
các địa bàn chiến lược như: khu 5, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Đông Nam Bộ,... đặc
biệt là Bộ đội Trường Sơn, Quân chủng Hải quân để xẻ núi, bạt đèo, xây dựng
hàng chục ngàn cây số đường bộ, đường sông, đường ống, đường biển, mở các tuyến
vận tải chiến lược chi viện cho chiến trường miền Nam và nước bạn Lào, Campuchia,
liệu có thể có Chiến thắng của ngày 30 tháng 4 lịch sử!
Sau ngày 30
tháng 4, đất nước hoàn toàn thống nhất cùng đi lên chủ nghĩa xã hội, các thế lực
thù địch, phản động trong và ngoài nước ra sức hô hào, cổ súy, viện trợ tiền của,
vũ khí cho bọn ngụy quân, ngụy quyền, bọn Fulro tăng cường hoạt động chống phá,
nhằm lật đổ chính quyền cách mạng. Một lần nữa, Quân đội lại tiên phong trên
các mặt trận, vừa phải làm tròn chức năng là đội quân chiến đấu bảo vệ thành quả
cách mạng, vừa là đội quân xung kích vào những nơi khó khăn, nguy hiểm nhất,
cùng cả nước xây dựng kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh. Đồng thời, kết hợp
phát triển kinh tế với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân; giữa xây dựng thế
trận quốc phòng với phát triển kinh tế, góp phần cùng cả nước từng bước vượt
qua khó khăn, thách thức để bước vào hội nhập và giao lưu quốc tế với uy tín và
vị thế mới.
Trong giai đoạn
hiện nay, các đơn vị quân đội đã phát huy vai trò nòng cốt trong xây dựng các
khu kinh tế - quốc phòng thực sự là nhân tố quan trọng trong công cuộc xóa đói,
giảm nghèo, thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo, phát triển kinh tế, xã hội ở
từng địa phương, vùng, miền gắn với tăng cường quốc phòng, an ninh của đất nước;
tham gia có hiệu quả xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội, tăng cường quốc
phòng, an ninh trên các địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển,
đảo, vùng căn cứ cách mạng, đẩy lùi các hủ tục; xây dựng làng, bản văn hóa;
cùng đồng bào các dân tộc xây dựng vành đai biên giới, xây dựng “thế trận lòng
dân” vững chắc. Những việc làm đó góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia,
dân tộc, cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân xây dựng một nước Việt Nam “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Như vậy, lao động
sản xuất là một nhiệm vụ chính trị xuyên suốt của Quân đội ta, một giá trị cốt
lõi làm nên nhân cách, phẩm giá “Bộ đội Cụ Hồ”. Vì thế, những luận điệu xuyên tạc
của tổ chức, cá nhân thời gian qua dù vô tình hay cố ý là không thể chấp nhận
và đáng bị lên án.
=TXD-H2=
0 nhận xét:
Đăng nhận xét