Một trong những
công lao vĩ đại nhất của Hồ Chí Minh đối với cách mạng nước ta là sáng lập,
lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí
Minh luôn luôn gắn bó chặt chẽ với sự nghiệp cách mạng của Đảng, với vận mệnh của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam.
Vai trò lãnh đạo
của Đảng đối với toàn xã hội không tự nhiên mà có và không phải cứ tự nhận mà
được. Vai trò đó có được là do năng lực lãnh đạo, tầm trí tuệ, sức chiến đấu của
Đảng luôn luôn được nâng cao, do sự phấn đấu bền bỉ của Đảng vì độc lập, tự do,
vì chủ nghĩa xã hội của đất nước, vì hạnh phúc của nhân dân, vì sự tiến bộ trên
nhân loại. Nhưng Đảng ta sẽ mất vai trò lãnh đạo toàn xã hội và sẽ không được
nhân dân tín nhiệm, nếu yếu kém, không trong sạch, vững mạnh. Do đó, thường
xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn bản thân Đảng là một yêu cầu của chính sự nghiệp
cách mạng trong tất cả các thời kỳ, để làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh, xứng
đáng “là đạo đức, văn minh”. Đây là quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh, là sự
quan tâm hằng ngày của Người nhằm giáo dục cho toàn Đảng tinh thần luôn luôn
rèn luyện, phấn đấu, để chiếm trọn sự tin yêu của nhân dân.
Sự cầm quyền của
Đảng ta là do nhân dân giao phó, cho nên, Đảng phải luôn luôn xứng đáng với sự
tín nhiệm của nhân dân. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, việc thường xuyên tự đổi
mới, tự chỉnh đốn càng phải được chú ý và trở thành quy luật tồn tại và phát
triển của Đảng. Hồ Chí Minh nhấn mạnh tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng chủ yếu
trên những nội dung: Một là, tăng cường công tác xây dựng Đảng cả về chính trị;
tư tưởng; tổ chức; phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và
các đoàn thể chính trị - xã hội cũng như đối với xã hội nói chung; đạo đức, lối
sống cho đội ngũ cán bộ, đảng viên... làm cho Đảng luôn luôn xứng đáng là đội
tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc Việt
Nam. Hai là, Đảng phải luôn luôn chú ý đề phòng và khắc phục những biểu hiện
tiêu cực, thoái hóa, biến chất, luôn luôn giữ gìn Đảng thật trong sạch, vững mạnh.
Đảng không sợ sai lầm, khuyết điểm mà vấn đề quan trọng nhất đối với sự tồn tại
và phát triển của Đảng là ở chỗ nhận biết sai lầm, khuyết điểm để ra sức sửa chữa.
Ba là, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên để đội ngũ này luôn luôn
toàn tâm, toàn ý phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, phải là
những người vừa có đức, vừa có tài. Bốn là, Đảng phải vươn lên đáp ứng kịp yêu
cầu của tình hình và nhiệm vụ mới do sự biến đổi của tình hình trong nước và quốc
tế; phải chú trọng nâng cao tầm trí tuệ, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
mình.
Học tập và làm
theo tư tưởng Hồ Chí Minh về Thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng trong
điều kiện hiện nay có những đặc điểm rất mới. Đây là thời kỳ mở cửa, hội nhập
quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra một cách nhanh chóng dưới sự tác động
nhiều mặt của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; đất nước đứng trước thời
cơ và thách thức lớn của sự phát triển. Với việc tham gia ngày càng nhiều và chủ
động, tích cực vào các tổ chức quốc tế, Việt Nam có nhiều cơ hội để thu hẹp dần
khoảng cách tụt hậu để phát triển. Sau 35 năm Đảng lãnh đạo sự nghiệp đổi mới,
đất nước đã thu được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, thế và lực
đã mạnh lên nhiều. Mạnh ở đây không chỉ biểu hiện ở tốc độ tăng trưởng cao mà
còn ở trình độ, ở tư duy bắt nhịp kịp với tư duy phát triển của thế giới. Đó
là, hơn bao giờ hết, con người Việt Nam đang khát khao cống hiến nhằm đưa đất
nước tiến nhanh và bền vững, sánh vai với các cường quốc năm châu. Đảng ta tiếp
tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn, đã nâng cao được năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của mình trong điều kiện mới. Ba yếu tố thời, thế và lực đang đan xen, tác động
mạnh mẽ với nhau; thời do thế và lực đưa lại; thế và lực tác động thúc đẩy thời
mau xuất hiện, trong bối cảnh đó, việc học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng Đảng cần tập trung vào một số vấn đề căn cốt nhất.
Trước hết, phải
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh
trên cơ sở nắm bắt một cách chính xác tình hình để đề ra đường lối, chủ trương,
quyết sách phù hợp với điều kiện mới. Đó là nguyên tắc bất di bất dịch, có tính
chất sống còn của Đảng và cách mạng Việt Nam. Tình hình trong nước và quốc tế ở
hiện tại và trong tương lai gần diễn biến rất nhanh chóng, ẩn chứa nhiều yếu tố
phong phú, phức tạp, khó lường, nên Đảng cần phải nắm chắc, để kịp thời đề ra
chủ trương, đường lối đúng đắn, song cũng cần tránh sự hấp tấp, vội vàng. Bài học
quý giá trong những năm qua chính là Đảng ta đã giải quyết thành công khi đổi mới
đường lối đối ngoại trước tình hình biến chuyển mau lẹ của thế giới, làm cho đất
nước có những bước đi phù hợp để tiến nhanh hơn. Trong đổi mới, vừa phải chú ý
đến những vấn đề mới nảy sinh, kịp thời nghiên cứu, tổng kết để mạnh dạn bổ
sung, phát triển Cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng; vừa phải cẩn trọng.
Bảo thủ, trì trệ, không chịu bổ sung, phát triển cương lĩnh, đường lối, chủ
trương khi tình hình trong nước và quốc tế có sự biến chuyển là không xứng đáng
với một đội tiên phong, một Đảng năng động, sáng tạo, một chủ thể khởi xướng đổi
mới toàn diện đất nước, đưa đất nước Việt Nam tiến nhanh, mạnh, bền vững, đạt
được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trong 35 năm qua.
Thứ hai, đẩy mạnh
công tác xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh toàn diện về mọi mặt. Nguy
cơ lớn nhất của Việt Nam trong một tương lai gần là nguy cơ Đảng bị suy yếu,
vai trò cầm quyền bị suy giảm, thậm chí bị mất, dẫn đến mất chế độ chính trị xã
hội chủ nghĩa, tức là nguy cơ nước ta trượt khỏi con đường độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội. Do đó, hãy bắt đầu từ bản thân Đảng, coi chăm lo xây
dựng Đảng là điều kiện tối cần thiết và là điều kiện tiên quyết để giữ vững chế
độ xã hội chủ nghĩa; làm cho cán bộ, đảng viên thấu hiểu sâu sắc tại sao Đảng Cộng
sản Việt Nam lại xác định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Tính chất then
chốt của nhiệm vụ đó là yêu cầu Đảng phải chú trọng nâng cao tầm trí tuệ và
năng lực lãnh đạo cũng như sức chiến đấu của mình trong giai đoạn cực kỳ quan
trọng của hội nhập quốc tế. Chưa bao giờ mà trí tuệ và bản lĩnh của Đảng ta được
thử thách một cách gay gắt như trong thời kỳ này, bởi vì sự nghiệp xây dựng đất
nước theo con đường xã hội chủ nghĩa đặt ra yêu cầu cho Đảng Cộng sản và nhân
dân Việt Nam phải có tầm nhìn và năng lực sáng tạo vượt bậc.
Xây dựng đường
lối đúng trong thời kỳ hội nhập quốc tế, trong xu thế toàn cầu hóa, trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ khó, nhưng biết
dựa vào trí tuệ của tập thể, mạnh dạn đổi mới, đổi mới có nguyên tắc, Đảng Cộng
sản Việt Nam sẽ lãnh đạo nhân dân, tổ chức thực hiện, để biến những điều đúng đắn
trong đường lối thành hiện thực. Điều này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng cơ
bản nhất vẫn là năng lực, trí tuệ, phẩm chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ
đức - tài, đầy tinh thần trách nhiệm trước Đảng, trước dân tộc, năng động, dám
nghĩ, dám làm. Muốn vậy, cần đặc biệt coi trọng công tác cán bộ, tiếp tục đổi mới
công tác cán bộ hơn nữa, vì đó là nhân tố con người, một nhân tố có ý nghĩa quyết
định đến thành bại của cả một sự nghiệp cách mạng. Kiên quyết khắc phục tình trạng
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; kiên quyết phòng chống tham nhũng,
lãng phí, quan liêu và các tiêu cực khác ở trong Đảng và ngoài xã hội. Những yếu
tố bên trong và bên ngoài trong bốn nguy cơ mà Đảng ta đã vạch ra từ trước đến
nay vẫn đan xen nhau, chuyển hoá cho nhau. Trong nhiều yếu tố cần đặc biệt chú
ý trong quá trình vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh thì yếu tố từ bản thân Đảng ta là cần chú ý hơn cả. Nếu từ phía bên
trong (tức là Đảng ta) mạnh thì phía bên ngoài, sự chống phá của các thế lực
thù địch, không thể nào làm cho Đảng ta suy yếu và mất vai trò cầm quyền được.
Ngược lại, nếu bên trong suy yếu, thì trong quá trình hội nhập quốc tế, “diễn
biến hoà bình” rất dễ biến thành nguy cơ “tự diễn biến hoà bình”.
Đại hội XIII của
Đảng đã chỉ rõ: Thoái hóa, biến chất về chính trị, tư tưởng, về đạo đức, lối sống;
tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân trong một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng, kéo dài chưa được ngăn chặn, đẩy lùi,
nhất là trong các cơ quan công quyền...; biểu hiện của gia tăng cơ hội chủ
nghĩa với nhiều kiểu “chạy”: chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy luân chuyển,
chạy tội, chạy bằng cấp...; sự gia tăng của bệnh quan liêu, của 4 biểu hiện:
nói nhiều làm ít; nói thì hay nhưng làm thì dở; nói mà không làm; nói một đằng
làm một nẻo; là bệnh thích nghe thành tích, ngại nghe sự thật... mà hậu quả tai
hại của các căn bệnh đó đã rõ: chúng làm cho nhiều chủ trương, chính sách, quyết
sách của nhiều tổ chức Đảng không phù hợp với thực tế; tình trạng vô trách nhiệm,
buông lỏng lãnh đạo xảy ra không ít, thậm chí một số tổ chức đảng bị tê liệt.
Những vấn đề
trên nếu giải quyết không tốt, thì sự cầm quyền, năng lực cầm quyền của Đảng ta
sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng, vì vậy, phải kiên quyết và kịp thời giải quyết những
tiêu cực đã xâm nhập vào cơ thể Đảng, Nhà nước, không để các tiêu cực phức tạp
và biểu hiện tinh vi hơn.
Thứ ba, tiếp tục
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam cầm quyền chỉ là đứng vị trí thứ hai sau khi có nội dung lãnh đạo, xét
theo quy trình hoạt động của một đảng cầm quyền. Nhưng, không thể phủ nhận được
tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước,
Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội cũng như lãnh đạo đối với toàn xã hội.
Vì vậy, trong khi tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo tư tưởng
Hồ Chí Minh, càng phải đặt trọng tâm vào việc tiếp tục đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước. Vai trò của Nhà nước trong hoàn cảnh hội nhập quốc
tế càng ngày càng nổi rõ. Điều đó không chỉ phản ánh điểm nhấn rằng, nói đến “cầm
quyền” của bất kỳ đảng chính trị nào, trong đó có Đảng ta, là trước hết nói đến
Đảng lãnh đạo Nhà nước; rằng, trong xã hội nói chung và nhà nước pháp quyền nói
riêng, Nhà nước là trung tâm quyền lực, thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền
và quyền lực của đại đa số nhân dân, thực hiện chức năng đối nội, đối ngoại.
Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị -
xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ thực thi chức năng, nhiệm vụ cầm quyền của
mình trong sự tiếp thu những ý kiến của các tổ chức đoàn thể; và chính qua đó,
Đảng tự nhìn lại chính mình để bổ sung, phát triển, điều chỉnh đường lối, chủ
trương, để đổi mới phương thức lãnh đạo của mình đối với hệ thống chính trị và
toàn xã hội.
Thứ tư, giải
quyết tốt mối quan hệ với nhân dân. Tất cả quyền lực trong xã hội Việt Nam đều
được cấu tạo trên cơ sở quyền lực của nhân dân và đều xuất phát từ vị trí, vai
trò của nhân dân. Vấn đề dân vận tư ởng đơn giản nhưng thực tế không phải hiện
nay ở đâu, kể cả cấp cơ sở, đều làm tốt. Vẫn còn nhiều, rất nhiều hạn chế, vấp
váp, do đó làm tổn hại đến uy tín của Đảng trước nhân dân. Những phản ứng gay gắt
của nhân dân đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên đối với chính quyền các cấp, rõ
nhất là cấp cơ sở; hàng loạt “điểm nóng” chủ yếu xuất phát từ khiếu kiện giải
quyết vấn đề nhà, đất ở nhiều địa phương... đã không còn là hiện tượng đơn lẻ.
Trong khi đó, vị trí và vai trò cầm quyền của Đảng đã chế định một thực tế là
tuyệt đại đa số những ngư ời có chức, có quyền là đảng viên, do đó, nếu không
chú ý tu dưỡng, rèn luyện theo phẩm chất cộng sản thì đảng viên có chức, có quyền
rất dễ xa dân, hách dịch, cửa quyền đối với dân. Đồng thời, trên thực tế khi vận
hành cơ chế thực thi quyền lực của xã hội trong vai trò cầm quyền, nhiều tổ chức
đảng và đảng viên đã không chú trọng bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của dân;
vẫn còn không ít nạn sách nhiễu, vòi vĩnh, đòi ăn của đút lót, đặc biệt là nạn
tham nhũng ngày càng tinh vi và nghiêm trọng hơn, chưa phòng và chống được một
cách có hiệu quả.
Suốt cuộc đời,
Hồ Chí Minh đã dành tâm sức lãnh đạo, rèn luyện Đảng, đã để lại cho các thế hệ
của Đảng ta di sản tư tưởng lớn lao, có ý nghĩa soi đường, chỉ lối vô cùng quan
trọng. Không những để lại di sản tư tưởng mà Người còn để lại triết lý hành động
vì Đảng, vì Dân, vì sự tiến bộ của nhân loại bằng tấm gương sáng không chút bụi
mờ của mình. Hồ Chí Minh là một người cộng sản, nêu tấm gương sáng cho toàn Đảng,
cho mọi thế hệ đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, đã sống một cuộc sống hiến
dâng - đó là hiến dâng cho sự nghiệp giải phóng con người; đã sáng lập, lãnh đạo
và rèn luyện một tổ chức tiên phong cho sự nghiệp đó là Đảng Cộng sản Việt Nam
- một Đảng thường xuyên tự chỉnh đốn và đổi mới để luôn trong sạch, vững mạnh./.
NXT-H1

0 nhận xét:
Đăng nhận xét