CHÀO MỪNG ĐẾN VỚI BLOG GIỮ TRỌN LỜI THỀ

Thứ Hai, 19 tháng 9, 2022

CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA LÀ NHIỆM VỤ TRUNG TÂM CỦA THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

 Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) từ một nước nông nghiệp lạc hậu cơ sở cật chất, kỹ thuật (CSVC, KT) thấp kém, trình độ lực lượng sản xuất (LLSX) XHCN mới được thiết lập chưa hoàn thiện. Vì vậy nước ta cần thiết phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước. Đây chính là con đường tạo ra lực lượng sản xuất (LLSX) mới nhằm khai thác và vận dụng triệt để nguồn nhân lực dồi dào của đất nước. Có thể khẳng định: CNH, HĐH đất nước là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Bởi vì:

Một là, xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội

Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra: xã hội loài người tất yếu tiến tới xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên nền tảng của nền đại công nghiệp, với lực lượng sản xuất có trình độ phát triển cao. Có nhiều cách tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội: trực tiếp hoặc gián tiếp; có thể bỏ qua một hoặc một vài hình thái kinh tế xã hội để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội với những điều kiện nhất định…

Đất nước ta tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lach hậu, thuộc địa nửa phong kiến, với cơ sở vật chất thấp kém, trình độ lược lượng sản xuất còn nhiều hạn chế. Vì vậy, Hồ Chí Minh cho rằng: muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa.

Như vậy, để xây dựng chủ nghĩa xã hội nhất định phải có con người mới xã hội chủ nghĩa và một nền tảng cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại. Do đó nhiệm vụ CNH, HĐH là nhiệm vụ trung tâm trong thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Hai là, xuất phát từ yêu cầu xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho CNXH thông qua con đường CNH, HĐH.

CSVC, KT là toàn bộ hệ thống yếu tố vật chất của LLSX xã hội phù hợp với trình độ kỹ thuật công nghệ tương ứng mà LLSX XH sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu của xã hội.

- Mỗi phương thức sản xuất đều phải có một CSVC, KT nhất định tương ứng:

Đặc trưng của CSVCKT của các phương thức trước TBCN: Từ sản xuất bằng săn bắt hái lượm, trồng trọt chăn nuôi (PTSX cộng sản nguyên thủy) CSVCKT còn rất thô sơ; PTSXCHNL, PK trình độ KHKT lạc hậu, LĐ thủ công là chính, năng suất lao động thấp, CSVCKT nghèo nàn.

CSVCKT của CNTB được tạo ra từ nền SX lớn, đại công nghiệp cơ khí và hiện nay là kinh tế tri thức, trình độ chuyên môn hóa cao, năng suất lao động vượt trội.

CSVCKT của CNXH là nền đại công nghiệp lớn, hiện đại có cơ cấu KT hợp lí, trình độ XH hóa cao dựa trên nền tảng của KHCN tiên tiến, được hình thành có kế hoạch trên toàn bộ nền kinh tế quốc dân (KTQĐ), dưới sự thống trị của QHSX XHCN:

Về mặt kinh tế kỹ thuật: chính là nền sản xuất lớn có CSVC, KT hiện đại tạo ra năng xuất lao động cao.

Do yêu cầu phải thực hiện mục tiêu nâng cao năng suất lao động cái bảo đảm cho CNXH chiến thắng các XH trước đó và để nâng cao đời sống của mọi thành viên trong XH. C.Mác viết: Phân tích cho đến cùng, năng suất LĐ là cái cơ bản nhất, quyết định nhất, sở dĩ CNTB chiến thắng được chế độ PK vì CNTB tạo ra một năng suất LĐcao hơn chế độ PK, do đó CNXH muốn chiến thắng được CNTB thì CNXH phải tạo ra năng suất LĐ cao hơn nhiều so với CNTB, đó là điều chính yếu.

Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay trên TG, đang diễn ra xu thế toàn cầu hóa và hội nhập KTQT, tất cả các nước đều đẩy mạnh NC KHKT phát triển công nghệ sản xuất để tăng sản lượng, nâng cao CL sản phẩm, tăng sức cạnh tranh, trên thị trường quốc tế và làm chủ thị trường trong nước. Nếu chúng ta không phát triển KHKT hiện đại thì chúng ta không thể nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm thì sẽ không thể cạnh tranh với SP của các nước khác trên thị trường quốc tế, thậm chí cả thị trường trong nước.

Về mặt kinh tế xã hội: phải được phát triển toàn diện với một cơ cấu kinh tế hợp lý và hiện đại.

Hình thành có kế hoạch trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân

Lênin chỉ ra: Con đường xây dựng CSVCKT cho CNXH có hai con đường: Các nước quá độ đi lên CNXH từ chế độ TBCN thì chỉ cần tiến hành cuộc CM vô sản để thay thế chế độ TBCN bằng chế độ XHCN. Còn đối với các nước có nền kinh tế lạc hậu chưa qua chế độ TBCN tiến thẳng lên CNXH phải tiến hành CNH, HĐH để xây dựng CSVCKT cho CNXH.

Xuất phát từ thực trạng của nền kinh tế Việt Nam là một nước có xuất phát điểm từ 1 nền nông nghiệp lạc hậu vừa trải qua sự tàn phá nặng nề của chiến tranh. Chúng ta chọn con đường đi lên xây dựng CNXH, bỏ qua chế độ TBCN thì tiến hành CNH, HĐH là tất yếu khách quan. Tiến hành CNH, HĐH sẽ giúp chúng ta thoát khỏi nguy cơ tụt hậu về kinh tế cũng như về KHKTCN so với các nước đi trước, rút ngắn khoảng cách giữa nước ta với các nước khác.

Tóm lại, CNH, HĐH là một chiến lược kinh tế mang tính khách quan đối với tất cả các nước khi chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp, đặc biệt là đối với một nước như nước ta hiện nay thì càng giữ vai trò quan trọng hàng đầu.

Ba là, xuất phát từ tác dụng nhiều mặt của CNH, HĐH:

Về mặt kinh tế:

Quá trình CNH, HĐH đất nước là quá trình tạo ra chỗ dựa vật chất vững chắc cho QHSX XHCN phát triển. Nhờ mỗi bước tiến lên của LLSX do CNH, HĐH mang lại mà QHSX XHCN từng bước được hình và củng cố, hoàn thiện và mở rộng, cơ sở bảo đảm vững chắc cho định hướng XHCN toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

Sự nghiệp CNH, HĐH đất nước thúc đẩy sự phân công LĐ XH phát triển, thúc đẩy quy hoạch vùng lãnh thổ hợp lý theo hướng chuyên canh tập trung làm cho quan hệ KT giữa các vùng, các miền trở nên thống nhất.

Về mặt chính trị:

Cùng với sự phát triển của công nghiệp, KHCN, GCCN sẽ ngày càng phát triển cả về số lượng và chất lượng. Trên cơ sở đó vai trò lãnh đạo của GCCN, thông qua ĐCS sẽ được tăng cường. CNH, HĐH đất nước cũng tạo ra cơ sở vật chất để tăng cường liên minh công – nông – trí, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bảo đảm sự thống nhất về chính trị, tinh thần của toàn xã hội.

Thành công của sự nghiệp CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân là nhân tố quyết định thắng lợi của con đường XHCN mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đã lựa chọn.

Về mặt văn hóa xã hội: Quá trình CNH, HĐH tạo ra CSVCKT hiện đại để làm biến đổi về CL SX nhờ đó mà hình thành hệ tư tưởng XHCN, con người mới XHCN, hình thành một nền văn hóa mới XHCN - nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Về lĩnh vực Quốc phòng an ninh: Quá trình CNH, HĐH tạo điều kiện vật chất để xây dựng nền KT độc lập tự chủ, vững mạnh trên cơ sở đó thực hiện chủ động hội nhập KTQT. CNH, HĐH không những có tác dụng thúc đẩy nền KT tăng trưởng phát triển cao mà còn bảo đảm thực hiện sự kết hợp tốt KT với QPAN, đối phó có hiệu quả với âm mưu “DBHB” của các thế lực thù địch.

Như vậy, từ những cơ sở lý luận và thực tiễn cho thấy trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, CNH, HĐH là một tất yếu khách quan, là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt của cả thời kỳ quá độ lên CNXH, là con đường duy nhất để xây dựng CSVC - KT cho CNXH.

ĐHQ-H2    

0 nhận xét: