Đảng Cộng sản
Việt Nam khẳng định: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là một tất yếu
khách quan, là nhiệm vụ kinh tế cơ bản trung tâm xuyên suốt của cả thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời là con đường duy nhất để xây dựng thành công
cơ sở vật chất, kỹ thuật cho CNXH ở Việt Nam. Vậy CNH, HĐH là gì? Cơ sở thực tiễn
nào khẳng định CNH, HĐH là tất yếu khách quan ?
1.Khái niệm
công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Có nhiều cách
tiếp cận và cách hiểu khác nhau về công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, theo
cách hiểu thông thường và được chấp nhận rộng rãi ở Việt Nam thì:
Công nghiệp
hóa là quá trình chuyển một nước có nền kinh tế lạc hậu, nông nghiệp là chủ yếu
thành một nước có nền kinh tế công nghiệp.
Hiện đại hóa
là, quá trình áp dụng những phát minh, thành tựu mới nhất của khoa học, kỹ thuật
- công nghệ vào nền kinh tế.
Trên cơ sở kế
thừa có chọn lọc và phát triển những tri thức văn minh nhân loại về CNH đồng thời
vận dụng, phát triển sáng tạo vào thực tiễn đất nước, Đảng ta đã đưa ra quan niệm
về công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ lao động sản xuất thủ
công là chính sang sử dụng một cách phổ biến lao động cùng với công nghệ,
phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công
nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
2. Cơ sở thực
tiễn
Quá trình
công nghiệp hoá của nước ta được thực hiện từ đầu những năm 60 của thế kỷ XX.
Hơn 50 năm qua, đường lối công nghiệp hóa đất nước đã có những điều chinh khá
cơ bản theo sự phát triển của tư duy và điều kiện cụ thể.
Kết quả đạt
được trong quá trình CNH, HĐH những năm vừa qua:
Một là, Cơ sở
vật chất, kỹ thuật của đất nước được tăng cường đáng kể, khả năng tự chủ của nền
KT được nâng lên, cả nước có nhiều khu công nghiệp và khu chế xuất tập trung,
nhiều khu hoạt động có hiệu quả như: KCN Dung Quất (Quảng Ngãi), KCN Bình
Dương, Đồng Nai, Vũng Áng, Nam Thăng Long, Đình Trám (Bắc Giang) hay khu chế xuất
Linh Trung II ( TP Hồ Chí Minh).....
Tỷ lệ ngành
CN chế tác, cơ khí chế tạo và nội địa hóa sản phẩm ngày càng tăng các ngành như
công nghiệp SX - TLSX như luyện kim, cơ khí, vật liệu XD, hóa chất cơ bản...phát
triển mạnh mẽ. Nhiều kết cấu hạ tầng được xây dựng như: Sân bay, cảng biển, đường
bộ, đường sắt, cầu, nhà máy điện, bưu chính viễn thông...theo hướng hiện đại.
Hai là, Cơ cấu
kinh tế chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH đã đạt được những kết quả nhất định cả
về CCKT ngành, cơ cấu vùng, lãnh thổ và cơ cấu thành phần kinh tế. Trong cơ cấu
ngành, chuyển dịch theo hướng tăng nhanh tỷ trọng ngành công nghiệp, xây dựng
và ngành dịch vụ và giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp trong cơ cấu GDP của đất nước.
Cơ cấu vùng chuyển dịch theo hướng phát huy lợi thế so sánh của từng vùng và tạo
liên kết giữa các vùng. Cơ cấu TPKT chuyển dịch theo hướng phát huy, khai thác
tối đa lợi thế của mỗi thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Cơ cấu LĐ có sự chuyển dịch tích cực.
Theo số liệu
Văn kiện Đại hội XII của Đảng: “Cơ cấu KT chuyển dịch tích cực, tỉ trọng công
nghiệp và dịch vụ trong GDP tăng từ 79,9% năm 2011 lên 82,6% vào năm 2015; tỉ
trọng nông nghiệp giảm từ 20,1% xuống còn 17,4%. Tỉ trọng lao động nông nghiệp
trong tổng lao động xã hội giảm, còn 44,3%”.[1]
Ba là, Những
thành tựu CNH, HĐH đã góp phần quan trọng đưa nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng
khá cao. Nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, từ nhóm nước thu thập thấp
đã trở thành nước có thu nhập trung bình vào năm 2010. Nền QP, AN được cũng cố
vững chắc và tăng cường khả năng QP, AN đất nước, xây dựng nền kinh tế độc lập
tự chủ, khắc phục nguy cơ cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong
khu vực và thế giới, đồng thời chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả.
Quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam thời gian qua đã đạt được những thành
tựu rất quan trọng. Nổi bật là trình độ công nghệ của một số lĩnh vực được nâng
cao, theo kịp trình độ của của các nước trong cùng khu vực. Đã phát triển một số
ngành công nghiệp chất lượng cao (công nghệ thông tin và truyền thông, điện tử...).
Trình độ công nghệ trong các ngành công nghiệp đã có những tiến bộ vượt bậc.
Trong nông
nghiệp, đã thành công trong việc lai tạo, nhân giống cây trồng mới, tăng năng
suất, thay thế giống nhập ngoại. Năng suất lúa bình quân tăng cao, đưa Việt Nam
từ chỗ thiếu lương thực triền miên trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên
thế giới. Ngành thủy sản đã đưa vào áp dụng công nghệ sản xuất giống, nuôi trồng,
chế biến giúp tăng sản lượng và giá trị xuất khẩu. Các mặt hàng thủy sản chế biến
xuất khẩu của Việt Nam đảm bảo yêu cầu về chất lượng thị trường Nhật Bản, EU, Mỹ.
Nền kinh tế
có tốc độ tăng trưởng cao. Trong một thời gian dài, tốc độ tăng trưởng trung
bình đạt trên 7%/năm, đưa Việt Nam trở thành một trong những nước có tốc độ
tăng trưởng kinh tế nhanh nhất của thế giới. Năm 2009, nước ta được thế giới thừa
nhận đã vượt qua ngưỡng nghèo để tham gia vào nhóm các nước thu nhập trung
bình. Thành tựu xóa đói, giảm nghèo cũng được thế giới thừa nhận là ấn tượng...
Đất nước ta “chưa bao giờ có cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày
nay”[2].
Những kết quả
to lớn mà chúng ta đạt được qua quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa là cơ sở thực tiễn khẳng định nội dung, chủ trương, biện pháp thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Để thực hiện mục tiêu đến năm 2045 nước
ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, có mức thu nhập trung bình
cao thì việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước càng cần thiết
hơn bao giờ hết./.
ĐHQ-H2
0 nhận xét:
Đăng nhận xét