Xuất phát từ thực trạng sinh tồn của gia đình trong các mối quan hệ đa chiều, các thành tố của không gian văn hóa này tạo ra một mối cộng cảm, cộng lực tích hợp giúp cho gia đình quy tụ, điều chỉnh và vận hành tốt nhất chức năng cao cả là giáo dục cho các thành viên từ đời này sang đời khác, theo quy luật cộng sinh của sự cố kết huyết thống, góp phần hình thành nên giá trị văn hóa của cộng đồng dân tộc.
Truyền thuyết dân gian vùng Trung châu từ nhiều nghìn năm qua vẫn lưu
giữ những câu chuyện về sự chăm lo của Vua Hùng với dân (dạy dân cấy lúa, dạy
dân dệt vải, dạy dân đi săn,...) và ngược lại, những câu chuyện và lễ hội đón
vua về làng ăn Tết, đón Vua Hùng vui xuân cùng làng bản, lễ rước chúa gái, mang
cuốc, thuổng theo Thánh Gióng đánh giặc,... đã tích hợp lại và sinh thành nên
tín ngưỡng tri ân, tôn vinh các thế hệ tiền nhân từ phạm vi gia đình đến cộng đồng
thể hiện qua thực hành nghi lễ thờ cúng tổ tiên, lễ hội. Và như vậy, bức tranh
văn hóa buổi đầu dựng nước của dân tộc đã “xác lập và tô đậm thành thói quen những
hoạt động đời thường, theo những chuẩn mực văn hóa - xã hội được cộng đồng chấp
thuận, duy trì từ thế hệ này đến thế hệ khác”.
Những cứ liệu khoa học chính xác, đích thực (khảo cổ học) cùng các cứ
liệu phong tục, nghi lễ và văn chương dân gian, nảy sinh từ thời đại Vua Hùng
(hoặc phản ánh về thời đại đó) cho phép chúng ta nhận diện bước đầu: Gia đình
các thế hệ người Việt - Mường thời các Vua Hùng được hình thành và tồn tại
trong một không gian văn hóa đặc sắc là vùng trung du và châu thổ Bắc Bộ. Qua
thử thách va đập với các mối quan hệ tự nhiên - xã hội đã dần định hình nếp sống
và phong cách sống phù hợp để tồn tại và phát triển. Đồng thời, tạo ra những
nét tính cách của người Việt cổ xưa - biết thính nhạy với mọi ứng xử quan hệ để
cùng tồn tại. Đó là một thứ “gia phong” sâu rễ, bền gốc, đóng vai trò quan trọng
cho sự tồn tại của gia đình người Việt thuở ban đầu dựng nước và giữ nước, hình
thành nên những nét truyền thống quý báu, khởi nguồn cho hệ thống giá trị văn
hóa, được truyền lại cho đời sau kế thừa, gìn giữ, phát huy. Minh giải bởi sắc
thái “gia phong” được xác lập như những chuẩn mực mang giá trị văn hóa có cội rễ
từ rất sớm này, chúng ta mới có thể góp phần lý giải cho hàng nghìn năm lịch sử
về sau, người Việt vẫn giữ được nếp sống địa phương mang giá trị đạo đức với sắc
thái riêng của mình, chống được tư tưởng đồng hóa và thống trị về văn hóa của
các thế lực ngoại xâm phương Bắc và phương Tây.
Như vậy, trên tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước, nếu như đặc
trưng của nền văn hóa lúa nước Việt là văn hóa làng, thì tín ngưỡng thờ cúng
Hùng Vương đã xác lập được giá trị khai phá, khâu nối, liên kết sức sống của
văn hóa làng trong không gian văn hóa cộng đồng quốc gia đa tộc người. Liên kết
cộng đồng là hạt nhân tạo ra sức mạnh cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc xuyên
suốt chiều dài lịch sử, được các triều đại quân chủ phong kiến khai thác, bồi đắp
và nâng lên thành các thiết chế văn hóa - chính trị, trở thành sợi dây thiêng gắn
kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc, tạo ra giá trị đạo đức chung cho cộng
đồng và tinh thần đoàn kết bền vững mang bản sắc Việt Nam là sống theo đạo lý
“uống nước nhớ nguồn”, tri ân những người có công với dòng tộc, đất nước trong
quá khứ. Đồng thời, chính thực trạng khép kín, tự cung, tự cấp của đời sống
kinh tế - văn hóa làng mà cộng đồng sống trong không gian văn hóa đó đã sớm có
ý thức tự lập, tự cường, tự rèn luyện để hun đúc nên ý chí tự cường dân tộc - một
phẩm chất/giá trị vô giá mỗi khi đất nước gặp họa lũ lụt hoặc nạn ngoại xâm,
như nhận định: “gia đình Việt Nam chính là cái lò tạo nên tinh thần yêu nước của
dân tộc”.
Những giá trị văn hóa gia đình đã tích hợp trong văn hóa dòng họ, văn hóa làng xã và tồn tại một cách sinh động trong đời sống xã hội, góp phần bảo tồn và phát huy những giá trị cao đẹp, thiêng liêng của cộng đồng quốc gia - dân tộc trong tiến trình lịch sử.
Nhìn lại quá trình xây dựng nhà nước Việt Nam thời kỳ chống xâm lược, đồng
hóa của ngoại bang phương Bắc và ngót mười thế kỷ xây dựng nhà nước phong kiến
độc lập, tự chủ, Phật giáo hướng vào chủ thể là bản ngã con người và mối liên kết
của con người trong xã hội, tích hợp với di sản văn hóa địa phương, mang lại
nhiều đóng góp nền tảng cho giáo dục trong gia đình. Hạt nhân cơ bản của thuyết
giáo nhà Phật là chữ Thiện được tiếp biến và biểu hiện sinh động qua quá trình
hòa nhập với đời sống tâm linh và đời sống văn hóa tinh thần cũng như vật chất
của người dân địa phương, gắn kết với những hành vi, ứng xử trong gia đình.
Tính thiện ở Phật giáo luôn gắn với chữ tâm, chữ hiếu. Tu theo nhà Phật là tu tại
gia, tu tại tâm. Đường tu tại gia đồng nhất với tín ngưỡng địa phương coi trọng
và đề cao sự thành kính với tổ tiên, hiếu thảo với cha mẹ, hòa nhã với anh em,
bè bạn, thuận nghĩa tình vợ chồng, đưa con người vào khuôn phép của tập tục họ
tộc, làng xã, cộng đồng... Điều thiện của nhà Phật đã được các triều đại phong
kiến cụ thể hóa để mỗi người nhìn nhận và tuân theo. Đạo đức Phật giáo như một
triết lý sống góp phần xây đắp nền tảng gia phong trong gia đình phong kiến Việt
Nam ngày một vững chắc. Đây cũng là đặc trưng độc đáo của nếp sống văn hóa gia
đình Việt Nam thời phong kiến. Chính vì thế, nhiều nét biểu hiện cụ thể của gia
phong trong gia đình người Việt đã được ghi lại trong các hương ước hoặc gắn với
các phong tục, tập quán (dù bất thành văn) và được con cháu các đời lưu giữ,
noi theo, tuân theo.
Nho giáo - thực chất khởi nguồn là học thuyết của Khổng Tử, tuy truyền
bá vào Việt Nam muộn màng, nhưng đã sớm bộc lộ sự quan tâm đến mọi vấn đề của
gia đình, biết cách định vị và tạo cho gia đình có một diện mạo rõ nét và đa dạng,
phù hợp với hoàn cảnh lịch sử xã hội quân chủ phong kiến. Nho giáo xây dựng cho
gia đình cái lý chặt chẽ, chuẩn mực theo cách nhìn nhận của xã hội phong kiến
(gia pháp, gia lễ) và cái tình mềm dẻo trong ứng xử (gia giáo, gia huấn, gia
phong). Đó là nét tích cực nhất của Nho giáo đã được các gia đình truyền thống
người Việt tiếp nhận, sàng lọc và tiếp thu.
Nhìn theo trục lịch sử, có thể nhận thấy nếp gia phong truyền thống của
gia đình bình dân (hiện chiếm số lượng lớn nhất trong hệ thống gia đình người
Việt) được thu nhận và tiếp biến từ hai nguồn văn hóa chủ đạo:
1- Lấy cái căn cốt địa phương là cần cù, chịu khó, có ý thức hy sinh vì
họ tộc, cộng đồng để rộng đường tiếp thu một cách hồn nhiên cái mềm dẻo, cái từ
thiện và cái nhân quả của nhà Phật (cái tình) nhằm phục vụ cho chức năng giáo dục
trong gia đình (hiếu - nhân);
2- Lấy cái ổn định, nền nếp của những nét gia phong đã định vị trong
gia đình để nhận biết và tiếp thu các giáo lý của Nho phong (lễ - nghĩa) làm
khuôn phép cho mọi mối quan hệ (cái lý) từ phạm vi gia đình hạt nhân đến gia
đình mở rộng (gia tộc) và đời sống xã hội (làng - nước).
Như thế, trong gia đình phong kiến người Việt (đại diện đông đảo và phổ biến nhất là gia đình bình dân, làm nông nghiệp), cái mềm dẻo nhân tính của đạo đức địa phương và Phật giáo cùng những khuôn phép của thuyết lý Nho giáo, với những chuẩn mực cụ thể và mang tính lịch sử tích cực của nó luôn tồn tại song hành. Và, mặc cho sự tác động của các tôn giáo và văn hóa ngoại lai đã và đang xâm nhập, môi sinh của văn hóa gia đình Việt Nam vẫn bền vững với văn hóa làng bản, mang tính khép kín cả về vật chất lẫn tinh thần. Cũng nhờ đó mà, mỗi khi có họa ngoại xâm, sự cố kết của quan hệ huyết thống từ gia đình đến dòng họ đã liên kết các thành viên của cộng đồng làng, bản, tạo nên những pháo đài kiên định chống giặc, sẵn sàng hy sinh cho xóm, làng, quê hương. Chính vì thế, khi xã hội chuyển qua bước đột biến quan trọng trong quá trình giao lưu với văn hóa Tây phương với sự tiếp cận truyền giáo của các giáo sĩ và sự ra đời của báo chí cùng với sự ra đời của hệ thống giáo dục do người Pháp đặt ra cho cộng đồng người Việt theo kiểu phương Tây thì ảnh hưởng của quá trình giao lưu và du nhập văn hóa phương Tây ở Việt Nam chủ yếu và bước đầu chỉ được thể hiện ở các đô thị gắn với buôn bán, thương mại và chính quyền đô hộ thực dân. Đối với không gian văn hóa làng - xã, nền nếp của gia đình phong kiến vốn đã định hình qua nhiều thế kỷ vẫn giữ được sự bền vững. Những yếu tố mang giá trị cốt lõi của gia phong, gia lễ, gia pháp trong gia đình người Việt gần như vẫn được duy trì, bảo lưu và truyền dạy qua các thế hệ.
Từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945, xã hội Việt Nam đã bước sang trang, khi
có sự xuất hiện của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và sự ra đời của Đảng Cộng sản Đông
Dương, giao lưu với văn hóa phương Tây đã được hướng sang vùng đất mới. Đó là
quê hương của Cách mạng Tháng Mười Nga và tư tưởng Mác - Lê-nin. Lý tưởng cộng
sản và “hơi thở” của nền văn hóa cách mạng đã được tiếp nhận và chào đón tại một
nước phong kiến nửa thuộc địa. Truyền thống dân tộc, nếp sống của gia đình Việt
Nam vốn hàng nghìn năm được sinh thành và tồn tại trong “bầu sữa” của văn hóa
làng với các giá trị độc đáo, bền vững sẵn có đã được thức tỉnh và nâng cấp bởi
ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí
Minh là biểu tượng cho sự kết hợp giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc và
tinh hoa văn hóa nhân loại, giữa văn hóa phương Đông và văn hóa phương Tây. Sự
xuất hiện và du nhập tư tưởng mới, tiến bộ thông qua các lãnh tụ cách mạng và
được vận hành, thể chế hóa qua các thiết chế văn hóa mới là cơ sở quan trọng tạo
ra bước ngoặt trong đời sống xã hội Việt Nam nói chung và sinh hoạt văn hóa
trong gia đình Việt Nam nói riêng.
Trên tiến trình hình thành và tồn tại của gia đình Việt Nam, đặc biệt
là gần chục thế kỷ trải qua chế độ quân chủ phong kiến, người Việt Nam luôn giữ
được bản sắc văn hóa dân tộc, tạo ra được sắc thái văn hóa độc đáo, phong cách
riêng biệt trên cơ sở tiếp nhận, sàng lọc những yếu tố văn hóa Đông - Tây,
thông qua những định hướng, thiết chế và chính sách phát triển văn hóa - xã hội
của bộ máy nhà nước mới. Những chuẩn mực văn hóa của một giai đoạn lịch sử hàng
nghìn năm luôn gắn với các mối quan hệ của gia đình, có chức năng điều tiết và
định hướng theo phong cách dân tộc đã bước đầu kết hợp với những tinh hoa văn
hóa thế giới. Có thể nói, sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, xã hội Việt Nam đã
có bước phát triển mới với sự xuất hiện và củng cố những tư tưởng và hành vi hiện
đại, phù hợp với sự vận động phát triển của đời sống xã hội đương thời, cả về
nhận thức và hành động trong gia đình (hạt nhân hay mở rộng). Nhiều tư tưởng của
lễ giáo nho gia vốn ràng buộc, thống trị tư tưởng con người nhiều thế kỷ đã được
xem xét lại, chuyển hóa theo cách cảm, cách nghĩ mới. Trong quan hệ vợ - chồng,
tư tưởng “tại gia tòng phụ” - nhất nhất mọi thứ phải tuân thủ theo chồng đã
chuyển dần sang: “Gái có công, chồng chẳng phụ”; “Thuận vợ thuận chồng tát biển
Đông cũng cạn”. Đó cũng là bước dậm đà để quan hệ vợ chồng hướng tới sự “bình đẳng”
trong xã hội hiện đại. Trong quan hệ bố mẹ - con cái, tư tưởng “Kim chỉ phải có
đầu”; “Cá không ăn muối cá ươn”; “Con chống lời cha là nhà vô phúc”,... đã chuyển
dần sang nhận thức coi trọng cá nhân, tự chịu trách nhiệm về mình: “Đời cua cua
máy, đời cáy cáy đào”; “Con hơn cha là nhà có phúc”. Song hành với sự nối kết
và vận động tri thức, hành vi từ văn hóa truyền thống sang chế độ xã hội mới,
những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các nhà lãnh đạo, chí sĩ yêu nước
đã sớm được truyền bá vào môi trường sinh hoạt văn hóa gia đình, góp phần tạo
ra những quan hệ tiến bộ, giải phóng mọi ách áp bức thân thể và tư tưởng, khai
thông cho tự do sáng tạo, đề cao nhân cách cá nhân để phục vụ nhiệm vụ cách mạng.
Sự vận động hướng theo lối sống - đạo đức cách mạng đã được coi là khuôn mẫu của
một thứ “gia phong mới” trong xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trong quá trình phát triển, xã hội Việt Nam nói chung và gia đình Việt
nói riêng đứng trước những thách thức trong phát triển kinh tế, chính trị và văn
hóa thời hội nhập toàn cầu, đặc biệt là sự coi trọng phát triển kinh tế thuần
túy đã vô tình làm cho một bộ phận không nhỏ cá nhân tự nhận thức và hành động
vì đồng tiền, bỏ qua những quan hệ xã hội tuân theo nền nếp văn hóa truyền thống
tích cực, những cặp quan hệ khuôn mẫu từ ông bà - cháu chắt đến cha mẹ - con
cái, anh - em, bạn bè - đồng nghiệp, thầy - trò... Trong khi đó, sự hội nhập về
văn hóa (qua các phương tiện truyền thông, sách báo) và hội nhập về giáo dục
(qua con đường học tập, lao động, du lịch,...) là những tác nhân vừa đem lại những
nhận thức hiện đại, tích cực, vừa lây lan những nhận thức và hành vi phản văn
hóa, không phù hợp với truyền thống đạo đức và lối sống của dân tộc.
Từ sự vận động của thực trạng đời sống xã hội, gắn với các không gian
văn hóa gia đình - nhà trường - xã hội, các thiết chế văn hóa cũng thường xuyên
được sửa đổi để ứng xử phù hợp với môi trường văn hóa nhân văn của xã hội hiện
tại. Giờ đây, văn hóa trong phạm vi không gian gia đình lại càng có vai trò
quan trọng, giữ vị thế hạt nhân cho quá trình thực hiện hương ước, quy ước văn
hóa mới gắn với chiến lược xây dựng nông thôn mới, vừa đảm trách nhiệm vụ bảo vệ
những giá trị văn hóa vốn có, vừa tiếp thu những nét văn minh, hiện đại, những
tinh hoa văn hóa từ nước ngoài để làm cho đời sống văn hóa gia đình, dòng họ,
làng bản thêm sinh động, văn minh. Tình yêu làng xóm, gia đình giờ đây không
còn bó hẹp trong sinh kế và môi sinh văn hóa hạn hẹp làng, bản, mà trở thành ý
thức cống hiến để tăng cao thu nhập kinh tế gia đình, góp phần xây dựng quê
hương đất nước. Những giá trị được chưng cất từ lòng hiếu thảo, tình làng nghĩa
xóm, ý thức cộng đồng đến giai đoạn vận động hội nhập và phát triển của xã hội
đã kết tinh thành “sức mạnh mềm”, góp phần tạo nên động lực xây đắp cho giá trị
văn hóa quốc gia - dân tộc, hiện tại và lâu dài.
Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc diễn ra tại Hà Nội ngày 24-11-2021, Tổng
Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu đặc biệt quan trọng, trong đó, thêm
một lần khẳng định sự đúng đắn trong quan điểm chỉ đạo, lãnh đạo sự nghiệp phát
triển văn hóa của Đảng những năm qua, đồng thời nêu ra sáu giải pháp thiết thực,
trong đó, giải pháp thứ hai đã được nhấn mạnh: “Xây dựng con người Việt Nam thời
kỳ đổi mới, phát triển, hội nhập với những giá trị chuẩn mực phù hợp, gắn với
giữ gìn, phát huy giá trị gia đình Việt Nam, hệ giá trị văn hóa, giá trị của quốc
gia - dân tộc, kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị truyền thống với giá trị thời
đại: Yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ
cương, sáng tạo. Những giá trị ấy được nuôi dưỡng bởi văn hóa gia đình Việt Nam
với những giá trị cốt lõi: Ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh; được bồi đắp,
phát triển bởi nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với hệ
giá trị: Dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học; trên nền tảng của hệ giá trị quốc
gia - dân tộc và cũng là mục tiêu phấn đấu cao cả của dân tộc ta: Hòa bình, thống
nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc”./.
PTT-BC
0 nhận xét:
Đăng nhận xét