Mở đầu
Để nhằm chống phá
và đi đến xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN), từ giữa thế kỷ XX, chủ nghĩa
đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch đã dùng chiến lược “diễn
biến hoà bình”. Chiến lược “diễn biến hoà bình” được tiến hành trên nhiều lĩnh
vực như: kinh tế, chính trị tư tưởng, văn hoá; tấn công vào nhiều lực lượng, tổ
chức chính trị-xã hội, trong đó quân đội được xác định là đối tượng trọng điểm.
Thực hiện “diễn biến hoà bình” đối với quân đội các nước XHCN, chúng thực hiện
âm mưu “phi chính trị hóa quân đội”.
Từ năm 1989, nhất là sau khi Liên Xô và
Đông Âu sụp đổ, thực hiện chiến lược toàn cầu “vượt trên ngăn chặn”, chủ nghĩa
đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch ra sức đẩy mạnh chiến
lược “diễn biến hoà bình”, kết hợp với bạo loạn lật đổ chống phá quyết liệt các
nước XHCN còn lại, trong đó Việt Nam là một trọng điểm. Một trong những mục
tiêu quan trọng, đồng thời còn là một thủ đoạn cơ bản trong chiến lược “diễn
biến hoà bình” của kẻ thù chống phá cách mạng nước ta là âm mưu “phi chính trị
hóa quân đội”.
“Phi chính trị
hóa quân đội”,
là quan điểm sai trái, phản động và phản khoa học của kẻ thù. Ở chỗ,
chúng đã phủ nhận bản chất giai cấp, chức năng chính trị-xã hội của quân đội
trong xã hội có giai cấp và đối kháng giai cấp.
Thực chất của quan điểm “phi chính trị hóa quân đội” là
tước bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội nhân dân
Việt Nam (QĐNDVN), vô hiệu hóa quân đội, làm cho quân đội ta đứng ngoài
chính trị, mất phương hướng chính trị và mục tiêu, lí tưởng chiến đấu, xa
rời bản chất giai cấp công nhân, dẫn đến suy yếu về chính trị, tiến tới
quân đội “tự diễn biến” và bị “vô hiệu hóa”. Từ đó đi đến thủ tiêu sự lãnh đạo
của Đảng đối với quân đội ta.
Đứng vững trên quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta và
thực tiễn lịch sử thế giới, trong nước để xem xét vấn đề Đảng lãnh đạo quân đội
có tất yếu khách quan hay không, hay phải “phi chính trị hóa quân đội” như các
nhà lí luận tư sản đã rêu rao. Sau đây tác giả xin được làm rõ những cơ sở khoa
học để chứng minh và một số giải pháp cơ bản để đấu tranh thắng lợi với luận
điệu “phi chính trị hóa quân đội”.
1.
Cơ sở khoa học Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức và lãnh đạo Quân đội nhân dân
Việt Nam.
- Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về giai cấp và đấu tranh giai cấp; chiến tranh
và quân đội.
Chủ nghĩa Mác-Lênin đã khẳng định, quân
đội là một hiện tượng chính trị-xã hội, là công cụ bạo lực
của một giai cấp, một nhà nước nhất định nhằm mục đích phục vụ lợi ích của giai
cấp, nhà nước đã tổ chức và nuôi dưỡng nó.
Lịch sử loài người từ khi phân chia giai
cấp và có đối kháng giai cấp là lịch sử đấu tranh giai cấp nhằm giải quyết mâu
thuẫn giữa các giai cấp. Cuộc đấu tranh giai cấp phát triển đến một trình độ
nhất định thì chuyển từ đấu tranh về kinh tế sang đấu tranh về chính trị, đặt
ra vấn đề giành và giữ chính quyền. Muốn giành được chính quyền từ tay giai cấp
tư sản, thì giai cấp công nhân phải sử dụng bạo lực cách mạng để làm cuộc cách
mạng xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen có công lao to lớn đã chỉ ra cho giai cấp vô
sản sứ mệnh lịch sử của mình là người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản xây dựng
chủ nghĩa cộng sản. Nhưng điều quan trọng nhất là hai Ông đã chỉ cho giai cấp
vô sản con đường đúng đắn tự giải phóng mình: để thực hiện sứ mệnh lịch sử, mục
tiêu, lí tưởng của mình, thì tất yếu giai cấp vô sản phải dùng bạo lực cách
mạng đập tan bạo lực phản cách mạng, nghĩa là phải đập tan bộ máy nhà nước của
giai cấp tư sản, lập nên nhà nước chuyên chính vô sản và dùng nhà nước đó làm
công cụ bảo vệ quyền thống trị của mình đối với toàn xã hội. Trong tác phẩm
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết: “Những người cộng
sản coi là điều đáng khinh bỉ nếu giấu diếm những quan điểm và ý định của mình.
Họ công khai tuyên bố rằng mục đích của họ có thể đạt được bằng cách dùng bạo
lực lật đổ toàn bộ trật tự xã hội hiện hành”[3, 646]. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen,
bạo lực cách mạng bao gồm hai lực lượng: chính trị và quân sự, đồng thời phải
kết hợp hai hình thức đấu tranh đó. Lực lượng chính trị: Đó là sự giác ngộ của
quần chúng; lực lượng quân sự: là một bộ phận quần chúng được giác ngộ, được
trang bị, được huấn luyện tập trung. Để tiến hành bạo lực cách mạng, thì nhất thiết
giai cấp vô sản phải thành lập ra quân đội làm nòng cốt cho đấu tranh vũ trang.
Sang thời kì chủ nghĩa
đế quốc, giai cấp tư sản càng bộc lộ bản chất hiếu chiến xâm lược. Chúng tổ
chức quân đội, nhà tù, cảnh sát để đàn áp giai cấp công nhân và nhân dân lao
động. Kế tục và phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, Lênin khẳng định:
giai cấp vô sản cần phải có tổ chức quân sự mạnh để làm nòng cốt cho cách mạng
vô sản và tổ chức quân sự đó chính là quân đội. Người viết: “Nhà nước tư sản bị
thay thế bởi nhà nước vô sản (chuyên chính vô sản) không thể bằng còn
đường “tiêu vong” được, mà chỉ có thể, theo quy luật chung, bằng một cuộc cách
mạng bạo lực thôi”[6, 27]. Không có bạo lực cách mạng thì giai cấp vô sản không
thể chiến thắng được. Không có bạo lực cách mạng, giai cấp thống trị (giai cấp
vô sản) nếu nó muốn thống trị và nếu nó thực sự thống trị thì nó cũng phải thể
hiện điều đó bằng tổ chức quân sự của nó và Lênin nhấn mạnh: một cuộc cách mạng
chỉ có giá trị khi nó tự bảo vệ.
Sở dĩ giai cấp vô sản phải dùng bạo lực là
bắt nguồn từ phía kẻ thù và vì một nền hoà bình thực sự. Lênin đã chỉ rõ: “đối
diện với chúng ta vẫn là một lực lượng quân sự thực sự to lớn, được vũ trang từ
đầu đến chân: đó là tất cả những cường quốc mạnh nhất trên thế giới”[7, 156].
Bạo lực cách mạng của giai cấp vô sản phải sử dụng là để trấn áp sự phản kháng
của kẻ thù, bạo lực đó bắt nguồn từ nhân dân và nhằm giành, giữ, bảo vệ chế độ
dân chủ cho nhân dân, làm sao cho cuộc cách mạng ít đổ máu nhất mà vẫn giành và
giữ được chính quyền, chứ không phải để đàn áp nhân dân, không phải là những
người “mê say” bạo lực như kẻ thù tuyên truyền và xuyên tạc, biện hộ cho kiểu
tự do dân chủ vô chính phủ và sự phản bội của chúng.
Như vậy, để giành và giữ chính quyền, giai
cấp vô sản phải luôn luôn nắm vững bạo lực cách mạng, dùng bạo lực ấy đập tan
nhà nước tư sản, thiết lập Nhà nước của mình và bảo vệ thành quả cách mạng, xây
dựng xã hội mới. Giai cấp vô sản dùng bạo lực là một tất yếu khách quan, là quy
luật trong cách mạng vô sản.
Từ mối quan hệ giữa chiến tranh và chính
trị.
Chiến tranh bao giờ cũng là sự kế tục của chính trị bằng thủ đoạn khác, thủ
đoạn bạo lực. Lênin khẳng định: “chiến tranh chỉ là sự tiếp tục của chính
trị bằng những biện pháp khác (cụ thể là bằng bạo lực). Đó là công thức của
Clau-de-vi-txơ, một trong những cây viết vĩ đại về lịch sử chiến tranh; những
tư tưởng của ông đã được Hê-ghen làm cho phong phú thêm. Và quan niệm của Mác
và Ăng-ghen luôn luôn cũng chính là như vậy, các ông coi bất cứ cuộc
chiến tranh nào cũng đều là sự tiếp tục của chính trị của một số cường
quốc hữu quan nào đó và của các giai cấp khác nhau trong nội bộ những
cường quốc đó-trong một thời gian nhất định”[5, 275-276]. Trong mối quan hệ
giữa chiến tranh và chính trị thì chính trị là mục đích còn chiến tranh là công
cụ, phương tiện. Để đạt được mục đích chính trị thì cần phải có công cụ mạnh,
công cụ đó chính là quân đội. Quân đội bao giờ cũng là quân đội của một giai
cấp, một nhà nước nhất định; do một giai cấp, một nhà nước tổ chức ra nuôi
dưỡng và sử dụng nó vào mục đích chính trị. Quân đội là công cụ thực hiện mục
tiêu, ý đồ chính trị của một giai cấp, một nhà nước. Không có quân đội nào đứng
ngoài chính trị. Do đó quân đội nhất thiết phải đặt dưới sự lãnh đạo của giai
cấp và mang bản chất giai cấp đã tổ chức ra nó. Vì vậy, quân đội của giai cấp
vô sản thì phải do chính Đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo là tất yếu khách
quan.
Quân đội của giai cấp tư
sản cũng không nằm ngoài quy luật đó. Nhưng trái ngược hoàn toàn với quân
đội của giai cấp vô sản, quân đội của giai cấp tư sản do giai cấp tư sản tổ
chức và lãnh đạo, là quân đội mang bản chất tư hữu, bóc lột, quân đội đó
nhằm bảo vệ quyền lợi cho thiểu số giai cấp bóc lột của giai cấp tư sản, chủ
nghĩa tư bản. Mục đích chiến đấu duy nhất của chúng là vì tiền;
đó là thứ quân đội quân đánh thuê cho giai cấp tư sản; là đội quân xâm lược,
một đội quân “chống khủng bố” trá hình. Với bản chất hiếu chiến, xâm lược,
chúng không từ một thủ đoạn nham hiểm, thâm độc nào nhằm lật đổ các nước không
tuân theo cây gậy chỉ huy của chủ nghĩa đế quốc. Vậy có dám “phi chính trị hóa
quân đội” của chúng không? Chắc chắn ngàn lần chúng không dám làm điều đó. Bởi
nếu “phi chính trị hóa quân đội” thì giai cấp tư sản lấy ai phục vụ cho mục
tiêu, ý đồ xâm lược của chúng?
Vì vậy, dù chúng cố chứng minh, quân đội là
một hiện tượng vĩnh viễn, “trung lập về chính trị”, “phi giai cấp”, là tổ chức
“ngoài giai cấp”, có nhiệm vụ thực hiện những chức năng “cộng đồng quốc gia”,
phục vụ lợi ích toàn nhân dân; hay quân đội là một tổ chức “nhân dân” đặc biệt,
dường như đứng ngoài chính trị đi nữa. Thực chất là chúng muốn che dấu bản chất
giai cấp của quân đội, tách rời quân đội với hệ thống chính trị với giai cấp.
Thậm chí chúng còn muốn đánh ngang bằng quân đội của các nước tư bản, đế quốc
với quân đội vô sản, hòng lừa bịp nhân dân và lừa bịp chính quân đội của chúng.
Chống
lại các quan điểm đó, Lênin khẳng định: không phải chỉ dưới chính thể quân chủ,
quân đội mới là công cụ đàn áp. Nó vẫn là công cụ đàn áp của tất cả các chính
thể cộng hoà tư sản, kể cả những chính thể cộng hoà dân chủ nhất. Người nhấn
mạnh: “quân đội của nhà nước tư sản là công cụ vững chắc nhất để duy trì và bảo
vệ chế độ cũ, là phương tiện quan trọng để đạt được các mục tiêu chính trị phi
nghĩa”[7, 361], là “công cụ của thế lực phản động, tôi tớ của tư bản trong cuộc
đấu tranh chống lại lao động ”[4, 137].
Chính từ việc phân tích sâu sắc tính tất
yếu của việc xây dựng một tổ chức quân sự của giai cấp vô sản trong điều kiện
lịch sử mới, điều kiện nhà nước Xô viết nằm
giữa vòng vây của kẻ thù và yêu cầu bảo vệ XHCN với tính cách là Tổ quốc, Lênin đã xây dựng hoàn
chỉnh học thuyết về quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản. Trong học thuyết của
mình, Lênin và Đảng Cộng sản Liên Xô lúc đó đã giải quyết thành công nhiều vấn
đề về nguyên tắc xây dựng một quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản. Đó là
những nguyên tắc chính trị-xã hội; nguyên tắc tổ chức; nguyên tắc huấn
luyện-giáo dục; nguyên tắc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; nguyên tắc Đảng lãnh
đạo quân đội. Trong đó Lênin đặc biệt nhấn mạnh: quân đội của giai
cấp công nhân phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đó là nguyên tắc
cơ bản nhất. Theo Lênin, sự lãnh đạo đó là tất yếu khách quan, là một quy
luật nhằm làm cho Hồng quân tuyệt đối trung thành với Đảng, với giai cấp công
nhân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì Tổ quốc XHCN.
Trung thành với học thuyết của chủ nghĩa
Mác-Lênin về quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản, vận dụng đúng đắn, sáng tạo
vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam; đồng thời kế thừa và phát triển
kinh nghiệm đánh giặc của cha ông ta. Trong quá trình xây dựng lực lượng vũ
trang, tổ chức và lãnh đạo quân đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng
Việt Nam muốn giành thắng lợi, phải đi theo con đường cách mạng vô sản, cần có
bạo lực cách mạng và dùng bạo lực cách mạng để đập tan bạo lực phản cách mạng.
Đó là bạo lực tổng hợp dựa trên sức mạnh toàn dân, chiến tranh toàn dân, toàn
diện; nghệ thuật quân sự lấy nhỏ tháng lớn, lấy ít địch nhiều. Trong suốt quá
trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn quan tâm việc Đảng phải lãnh đạo
chặt chẽ quân đội. Người khẳng định: “Dân tộc Việt Nam nhất định phải được giải
phóng. Muốn giải phóng thì phải đánh phát xít Nhật và Pháp. Muốn đánh chúng thì
phải có lực lượng quân sự. Muốn có lực lượng thì phải có tổ chức”[2, 329]. Điều
đó chứng tỏ rằng, sự ra đời của quân đội liên hệ mật thiết với sự nghiệp giải
phóng giai cấp và giải phóng dân tộc và quân đội ta đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng là một tất yếu khách quan.
Đảng ta, khi ra đời trong cương lĩnh cách
mạng của mình đã khẳng định quan điểm cách mạng bạo lực của chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh và chỉ ra con đường đấu tranh vũ trang để giành chính
quyền. Để lãnh đạo cách mạng đi đến thắng lợi, Đảng Cộng sản Việt Nam đã định
ra đường lối chủ trương đúng đắn cho cách mạng Việt Nam; trong đó đặc biệt chăm
lo tổ chức, xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân mà nòng cốt là QĐNDVN trở
thành lực lượng chính trị, đội quân chiến đấu tuyệt đối trung thành và tin cậy
của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Trong “Chính cương vắn
tắt” của Đảng tháng 2/1930, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề xuất việc tổ chức ra
quân đội công nông. Sau đó, “Luận cương chính trị” của Đảng tháng 10/1930 đã
nêu rõ vấn đề: Phải vũ trang cho công nông, lập đội quân công nông và tổ chức
đội tự vệ công nông. Ngày 22/12/1944 Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thành
lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của QĐNDVN ngày nay.
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, việc Đảng tổ chức ra quân đội để tiến
hành đấu tranh cách mạng là một tất yếu khách quan, xuất phát từ yêu cầu sự
nghiệp cách mạng của Đảng. Cùng với việc xây dựng lực lượng chính trị trong
quần chúng cách mạng, Đảng ta coi trọng xây dựng và lãnh đạo chặt chẽ lực lượng
quân sự của mình. Không những tổ chức ra quân đội, Đảng còn xác định sự tất yếu
phải lãnh đạo quân đội đó. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi sự lãnh đạo của Đảng là
nguồn gốc, là nhân tố quyết định sự trưởng thành và lớn mạnh của Quân đội. Quân
đội ta có sức mạnh vô địch vì nó là Quân đội nhân dân, do Đảng ta xây dựng, lãnh
đạo và giáo dục.
- Xuất phát từ mục tiêu, chức năng, nhiệm
vụ, đặc điểm tổ chức và hoạt động của quân đội ta.
Mục tiêu chiến đấu của quân
đội ta là vì độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Đó là mục tiêu cao cả của Đảng
ta. Như vậy, mục tiêu lí tưởng của Đảng cũng là mục tiêu, lí tưởng chiến đấu
của quân đội ta. Chỉ dưới sự lãnh đạo của Đảng quân đội ta mới thực hiện được
mục tiêu, lí tưởng đó.
Chức năng của quân đội ta là
dùng bạo lực vũ trang để bảo vệ lợi ích căn bản của Đảng, của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động. Quá trình tồn tại, phát triển của QĐNDVN đã khẳng
định ba chức năng chủ yếu: là đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân
sản xuất. Trong đó, chiến đấu là chức năng chủ yếu, gắn liền với quá trình lao
động quân sự gian nan vất vả đầy tính chất phức tạp. Chức năng công tác chiếm
một vị trí, vai trò rất quan trọng, đặc biệt trong điều kiện hiện nay kẻ thù
đang hàng ngày hàng giờ bằng chiến lược “diễn biến hoà bình” luôn tìm cách chia
rẽ mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với quân đội, giữa quân đội với nhân dân.
Chức năng sản xuất của quân đội, tăng
gia sản xuất cải thiện đời sống cho bộ đội, xây dựng kinh tế, góp phần
xây dựng và phát triển đất nước.
Thực tiễn từng giai đoạn phát triển của
cách mạng đã chứng minh: dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội ta đã thực hiện
xuất sắc ba chức năng trên, cùng với toàn Đảng, toàn dân đánh thắng mọi kẻ thù
xâm lược, lập nên những chiến công hiển hách và ngày nay đang có những đóng góp
quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Từ tính chất, đặc điểm hoạt động của
quân đội. Quân đội là một tổ chức quân sự đặc thù khác với bất cứ tổ chức nào
trong xã hội: có cơ cấu biên chế đặc biệt phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của
nó. Đặc điểm tổ chức, biên chế của quân đội theo chế độ tập trung, mọi hoạt
động đều chi phối bởi điều lệnh, điều lệ nghiêm ngặt. Đồng thời, quân đội sử
dụng hệ thống vũ khí chuyên dùng mà các tổ chức khác trong xã hội không thể có
được. Công cụ chiến đấu là vũ khí, phương tiện chiến tranh có khả năng hủy diệt
lớn. Đồng thời, đối tượng của quân đội là kẻ thù của giai cấp, của dân tộc. Mọi
nhận thức, động thái của hành động quân sự đều có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu
cực cho bộ phận hay toàn cục. Tính chất hoạt động của quân đội gian khổ, ác
liệt, khi cần là hy sinh đến tính mạng.
Do đó, để bảo đảm tập trung thống nhất ý
chí và hành động thì quân đội phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là nguyên
tắc bất di bất dịch. Đảng phải luôn luôn nắm chắc và lãnh đạo quân đội trong
mọi tình huống nhằm làm cho quân đội luôn trung thành vô hạn với Đảng với nhân
dân và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.
- Từ thực tiễn và kinh nghiệm tổ chức, lãnh
đạo quân đội của các Đảng Cộng sản trên thế giới và của Đảng ta.
Kinh nghiệm cách mạng thế giới đã chỉ rõ,
từ xưa đến nay bất kỳ một giai cấp nào tổ chức, lãnh đạo nhà nước thông qua
chính đảng của mình thì cũng tổ chức và nắm quyền lãnh đạo quân đội. Nếu Đảng
đó thường xuyên tăng cường lãnh đạo đối với quân đội thì quân đội trung thành,
thực sự là lực lượng chính trị tin cậy của Đảng và nhà nước. Nếu Đảng nào buông
lỏng quân đội thì quân đội biến chất và mất phương hướng chính trị, lập trường
giai cấp. Thực tiễn quân đội ở các nước Đông Âu, Liên Xô những năm 80 của thế
kỷ XX là ví dụ điển hình. Vào thời điểm đó, quân đội Liên Xô được đánh giá là
một trong những đội quân mạnh nhất thế giới. Nhưng với âm mưu “phi chính trị
hóa quân đội”, các thế lực thù địch đã làm cho Đảng Cộng sản Liên Xô và các
nước XHCN Đông Âu mất quyền lãnh đạo quân đội, quân đội mất phương hướng chính
trị, cầm súng nhưng không biết bắn vào ai, dẫn đến kết quả: chế độ XHCN ở Liên
Xô và các nước Đông Âu sụp đổ nhanh chóng mà kẻ địch không mất một viên
đạn.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn nữa thế kỷ
qua đã chứng minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân
đội ta luôn vững vàng, thực sự là lực lượng nòng cốt cùng toàn dân đánh giặc,
tiến hành đấu tranh giải phóng dân tộc bảo vệ Tổ quốc và làm tròn nhiệm vụ quốc
tế cao cả. Quân đội ta đã vượt qua những chặng đường đầy gian lao, thử thách và
chiến thắng vẻ vang.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh, quân đội ta đã không ngừng học tập, rèn luyện và xây dựng trưởng
thành về mọi mặt: chính trị, quân sự, tổ chức, trang bị. Trong đó sự vững mạnh
về chính trị là vấn đề quan trọng hàng đầu, là cơ sở nâng cao chất lượng tổng
hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội.
Kinh nghiệm hoạt động
cách mạng của Đảng ta trong 75 năm qua đã cho thấy, do Đảng ta luôn luôn lãnh
đạo chặt chẽ quân đội, giữ vững, tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính
nhân dân và tính dân tộc cho quân đội, vì vậy quân đội ta thực sự là quân đội
của dân, do dân, vì dân, chiến đấu vì mục tiêu lí tưởng của Đảng của dân tộc.
Trong bất kì tình huống nào Đảng cũng giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo đối
với quân đội; chăm lo củng cố và phát huy cao độ hiệu lực lãnh đạo của đảng,
nhất là các tổ chức đảng ở cơ sở, nên quân đội ta đã hoàn thành xuất sắc mọi
nhiệm vụ được giao.
Như vậy, trong quá trình
xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của quân đội ta luôn gắn liền với vai trò
lãnh đạo của Đảng. Và thực tiễn đã chứng minh: Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, sự trưởng
thành và chiến thắng của quân đội. Mọi biểu hiện làm giảm sút, hạ thấp vai trò,
hay đòi chia quyền sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội đều là sai trái và làm
suy yếu quân đội.
- Từ đặc điểm đấu tranh giai cấp, đấu tranh
dân tộc hiện nay và từ nhiệm vụ xây dựng quân đội trong thời kì mới.
Ngày nay đấu tranh
giai cấp, dân tộc diễn ra hết sức gay gắt và với những nội dung mới. Nghị quyết
đại hội IX của Đảng xác định: “Trong một vài thập kỷ tới, ít có khả năng xảy ra
chiến tranh thế giới. Nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân
tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố còn xảy
ra ở nhiều nơi với tính chất phức tạp ngày càng tăng” [1, 14]. Chủ nghĩa đế
quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch không từ một thủ đoạn nham
hiểm nào để lật đổ các nước không tuân theo cây gậy chỉ huy của chúng. Trong
đó, chúng đặc biệt kết hợp cả “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ, với chiến
tranh xâm lược; thực hiện âm mưu thôn tính, thủ tiêu các nước XHCN còn lại và
coi Việt Nam là một trọng điểm. Thực tế hiện nay, thế bố trí chiến lược của chủ
nghĩa đế quốc luôn đặt các nước trên thế giới trong tình trạng có nguy cơ chiến
tranh bất cứ lúc nào. Chính vì vậy, sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội không
hề giảm đi mà ngày càng tăng lên hơn bao giờ hết.
Hiện nay, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc có yêu cầu và nội dung mới, đó
là: “bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh
quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân
dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia,
dân tộc” [1, 117]. Đồng thời, chúng ta phải tiếp tục “xây dựng Quân đội nhân
dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”[1,
118], lấy xây dựng chính trị làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp và sức
mạnh chiến đấu quân đội. Chỉ có giữ vững và tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của
Đảng đối với quân đội thì mới xây dựng được bản chất giai cấp công nhân cho
quân đội, quân đội mới hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân
giao phó.
Mặt khác, hiện nay nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa (XHCN), bên cạnh những mặt tích cực, thì mặt tiêu cực đã và đang
hàng ngày, hàng giờ tác động đến việc tăng cường bản chất giai cấp công nhân,
bản chất cách mạng của quân đội. Những biểu hiện cường điệu lợi ích vật chất,
lối sống thực dụng, cơ hội về chính trị, sự suy giảm về đạo đức cách mạng là
những cản trở trong xây dựng quân đội về chính trị.
Từ những cơ sở lí luận và thực tiễn trên, một
lần nữa chúng ta khẳng định: chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức và lãnh đạo
QĐNDVN, quân đội ta mới mang bản chất giai cấp công nhân, trung thành với Đảng
với Tổ quốc, với nhân dân, phát huy được truyền thống vẻ vang, bản chất cách
mạng, thực sự là lực lượng chiến đấu trung thành, là chỗ dựa vững chắc của nhân
dân. Và thực tế đó đang chứng minh tính đúng đắn quan điểm của Lênin: hiện nay
cũng như trước kia và sau này quân đội sẽ không bao giờ có thể trung lập
được.
Như vậy, với giọng điệu thù
địch: “phi chính trị hóa quân đội” là hết sức bịp bợm, sai trái, chúng ta cần
cảnh giác và đấu tranh làm thất bại âm mưu đó.
2. Đấu
tranh làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” của kẻ thù trong giai
đoạn hiện nay.
Để thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa quân
đội”, kẻ thù đã và đang dùng nhiều hình thức, biện pháp đa dạng, tinh vi và rất
nguy hiểm như: phủ nhận hệ tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh; đòi xóa Điều 4 trong Hiến pháp hiện hành của nước ta xác định sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với xã hội, đòi thực hiện “đa nguyên
chính trị, đa đảng đối lập”. Chúng còn tập trung tuyên truyền, xuyên tạc, phủ
nhận đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Kẻ thù còn triệt để lợi
dụng tình trạng tham nhũng, thoái hóa biến chất ở một số bộ phận cán bộ, đảng
viên để gây chia rẽ nội bộ, làm phai nhạt bản chất cách mạng, truyền thống tốt
đẹp của quân đội ta. Đồng thời chúng tăng cường tuyên truyền lối sống thực
dụng, chạy theo đồng tiền, thờ ơ về chính trị; tạo ra sự mơ hồ, mất cảnh giác
trong cán bộ, chiến sĩ, làm cho quân đội suy yếu về chính trị từ bên trong, trượt
sang chính trị phản cách mạng.
Trong bối cảnh tình hình thế giới hiện nay
đang diễn biến phức tạp có lợi cho chủ nghĩa đế quốc, chúng càng đẩy mạnh âm
mưu “phi chính trị hóa quân đội” với những thủ đoạn thâm độc và nham hiểm hơn
đối với quân đội ta.
Công cuộc đổi mới
của nước ta đang bước vào thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thế
và lực của ta đã lớn mạnh lên nhiều, nhưng nước ta vẫn còn là nước kinh tế chậm
phát triển. Bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn còn tồn tại đan xen, diễn biến
phức tạp. Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN của nhân dân ta có nhiều thuận lợi rất
cơ bản, nhưng cũng đang phải đương đầu với những khó khăn thách thức lớn. Với
vị trí chiến lược quan trọng trong khu vực và thế giới, Việt Nam đang là một
trong những đối tượng chiến lược an ninh quốc gia mà nhiều nước quan tâm, nhất
là các nước lớn.
Trong
nước, bọn phản động và các phần tử thoái hóa, biến chất, cơ hội về chính trị
dưới sự chỉ đạo và giúp đỡ của các thế lực phản động quốc tế đang tập hợp lực
lượng, âm mưu hình thành các tổ chức chính trị đối lập, gia tăng các hoạt động
chống đối.
Nhiệm vụ của quân
đội có sự phát triển mới và đặt ra những yêu cầu rất cao, đòi hỏi phải “thường
xuyên tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với
Quân đội nhân dân”[1, 119], bảo đảm cho quân đội tuyệt đối trung thành với
Đảng, với Tổ quốc và với nhân dân. Quân đội phải không ngừng nâng cao chất
lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu toàn diện, trước hết là sự vững mạnh về
chính trị, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước
và nhân dân giao cho trong mọi tình huống.
Mục
tiêu của cuộc đấu tranh chống âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” là: ngăn
chặn, làm thất bại những thủ đoạn của kẻ thù, giữ vững và tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với quân đội, tăng cường bản chất giai cấp công nhân, kiên
định mục tiêu, lí tưởng chiến đấu của quân đội, giữ vững và phát huy phẩm chất
cao quý “Bộ đội Cụ Hồ”.
Trong
tình hình hiện nay ở nước ta, để đấu tranh chống âm mưu “phi chính trị hóa quân
đội” thắng lợi phải được kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chống chiến lược “diễn
biến hoà bình” của kẻ thù trên tất cả các lĩnh vực. Đó cũng là nhiệm vụ của
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Trong đó cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung, biện pháp
chủ yếu sau đây:
Một là, tăng cường
giáo dục giác ngộ bản chất giai cấp công nhân của Đảng cho mọi cán bộ, chiến
sĩ.
Đây
là nội dung rất quan trọng, nhằm xây dựng bản lĩnh chính trị, lập trường giai
cấp, củng cố niềm tin cho bộ đội vào sự lãnh đạo của Đảng, thắng lợi của sự
nghiệp đổi mới xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc. Sự giác ngộ sâu sắc bản chất
giai cấp công nhân của cán bộ, chiến sĩ có tác dụng trực tiếp ngăn chặn sự xâm
nhập, lây lan của tư tưởng thù địch, phản động tuyên truyền “phi chính trị hóa
quân đội” của kẻ thù.
Để thực hiện tốt
việc giáo dục giác ngộ bản chất giai cấp công nhân cho mọi cán bộ, chiến sĩ,
các cơ quan, đơn vị trong toàn quân phải tăng cường công tác giáo dục chính trị
tư tưởng theo quy định của Tổng cục Chính trị và bổ sung những nội dung giáo
dục cho phù hợp với nhiệm vụ của từng đơn vị và tình hình nơi đóng quân.
Trong
đó, các đơn vị phải chú trọng giáo dục cho mọi cán bộ, chiến sĩ nhận thức sâu
sắc rằng, quân đội bao giờ cũng mang bản chất của một giai cấp nhất định, không
có quân đội “phi giai cấp”, “siêu giai cấp”. QĐNDVN do Đảng, Bác Hồ tổ chức,
lãnh đạo và giáo dục, là quân đội kiểu mới mang bản chất giai cấp công nhân,
tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc, chiến đấu vì mục tiêu lí tưởng của Đảng,
đó là tất yếu khách quan không thể phủ nhận. Công tác giáo dục là phải làm cho
bản chất cách mạng ấy của quân đội thấm sâu, tồn tại và phát triển trong tư
tưởng, tình cảm của mỗi cán bộ, chiến sĩ.
Cùng với việc tăng cường giáo dục bản chất giai cấp công
nhân, các đơn vị phải tăng cường giáo dục chủ nghĩa yêu nước Việt Nam cho bộ
đội để khơi dậy lòng tự hào dân tộc, truyền thống của cha ông, mà thế hệ trẻ
hiện nay phải có nhiệm vụ giữ gìn, phát triển.
Hình thức, phương
pháp giáo dục phải hết sức đa dạng, phong phú và thường xuyên được đổi mới. Các
đơn vị phải biết kết hợp giữa giáo dục chung với giáo dục riêng; phối, kết hợp
chặt chẽ giữa công tác giáo dục với công tác cán bộ, tổ chức, chính sách; đồng
thời giữ tốt mối quan hệ với gia đình, các đoàn thể địa phương nơi đóng quân để
phát huy sức mạnh tổng hợp trong công tác giáo dục…
Mỗi
đơn vị làm tốt những nội dung, phương pháp, hình thức như trên sẽ bảo đảm cho
cán bộ, chiến sĩ trong quân đội nâng cao khả năng “tự vệ” trước những thủ đoạn,
luận điệu nhằm tuyên truyền “phi chính trị hóa quân đội”, “quân đội trung lập”
của kẻ thù.
Hết
sức tránh việc coi nhẹ công tác giáo dục giác ngộ bản chất giai cấp công nhân
cho bộ đội; hoặc cho công tác giáo dục là thứ yếu, không quan trọng bằng công
tác huấn luyện quân sự; hay lại quá chú trọng công tác giáo dục, bỏ quên nhiệm
vụ chính trị của đơn vị. Đó là những nhận thức hết sức không đúng, dẫn đến mắc
mưu kẻ thù.
Hai là, giữ vững và
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, xây dựng các tổ chức đảng
trong quân đội trong sạch vững mạnh.
Giữ
vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, xây dựng các tổ chức
đảng trong quân đội trong sạch vững mạnh (TSVM) là vấn đề then chốt trong việc
xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị làm cơ sở xây dựng sức mạnh tổng hợp
của quân đội. Bởi tổ chức đảng là hạt nhân lãnh đạo, trung tâm đoàn kết của đơn
vị.
Mặt
khác, bản chất của âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” của kẻ thù là tước bỏ
quyền lãnh đạo của Đảng ta đối với quân đội. Do đó, giữ vững và tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với quân đội có ý nghĩa quyết định đánh bại âm mưu “phi
chính trị hóa quân đội” của kẻ thù. Làm cho mọi cán bộ, chiến sĩ tự “miễn dịch”
được trước sự tấn công, xâm nhập của những tư tưởng sai trái của các thế lực
thù địch.
Giữ
vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội thực chất là giữ vững
và tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho quân đội; là làm cho quân đội
quán triệt sâu sắc chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước, quan điểm, đường lối quân sự của Đảng vào quân đội;
là tập trung nâng cao sức mạnh về chính trị, tinh thần, làm cơ sở nâng cao chất
lượng tổng hợp và sức chiến đấu của quân đội. Đảm bảo cho Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội. Quân đội tuyệt
đối phục tùng sự lãnh đạo của Đảng.
Để giữ vững và tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, vấn đề cơ bản, cấp bách hiện nay
là phải xây dựng hệ thống tổ chức đảng trong quân đội thật sự TSVM, có sức
chiến đấu cao. Vì vậy, phải thường xuyên chăm lo xây dựng các tổ chức đảng vững
mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Trước
mắt, các tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ quân đội cần tiếp tục quán triệt sâu
sắc, tổ chức thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, tiến hành tự
phê bình và phê bình theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa
VIII và Nghị quyết đại hội IX của Đảng; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung
dân chủ, tập thể lãnh đạo đi đôi với phân công cá nhân phụ trách; qua đó xây
dựng các tổ chức đảng TSVM, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, bảo đảm
sự lãnh đạo của Đảng được thông suốt từ trên xuống dưới, tới từng đơn vị, từng
cán bộ, chiến sĩ.
Bên
cạnh đó, phải kết hợp chặt chẽ xây dựng các tổ chức cơ sở đảng TSVM với xây
dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa lãnh đạo với
chỉ huy, giữa tổ chức đảng với các tổ chức trong đơn vị. Giữa đảng viên với
quần chúng, cán bộ với chiến sĩ. Xây dựng các tổ chức trong đơn vị thực sự đoàn
kết nhất trí cao. Sự vững mạnh và hoạt động có hiệu quả của các tổ chức cơ sở
đảng là khâu then chốt góp phần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với từng
đơn vị và toàn quân.
Kiên quyết đấu tranh với mọi hiện tượng buông lỏng xây
dựng tổ chức đảng, hoặc không gắn việc xây dựng tổ chức đảng TSVM với xây dựng
đơn vị vững mạnh toàn diện. Đồng thời, chống mọi hiện tượng tiêu cực tập thể,
sự suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống của cấp ủy, chỉ huy các cấp; hết
sức tránh mọi biểu hiện hạ thấp vai trò lãnh đạo của cấp ủy, chi bộ, đảng bộ
đối với đơn vị.
Ba là, nâng cao bản
lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ trì trong quân đội.
Cùng
vào việc xây dựng hệ thống tổ chức đảng, tăng cường CTĐ, CTCT; để nắm chắc quân
đội, khâu then chốt là Đảng phải nắm chắc đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ
trì ở đơn vị. Bởi họ là người trực tiếp giáo dục, quản lí, chỉ huy, tổ chức đơn
vị thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ. Lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, bản
lĩnh chính trị vững vàng, năng lực hoàn thành nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ là
một trong những yếu tố cơ bản, có ý nghĩa quyết định đảm bảo Đảng nắm chắc quân
đội trong mọi tình huống.
Ngày nay, trong
điều kiện đất nước ta thực hiện nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN,
những tác động tích cực, tiêu cực đan xen. Vì vậy sự thử thách “vàng-lửa” đối
với đội ngũ cán bộ trong quân đội diễn ra gay gắt. Bên cạnh đó, kẻ thù luôn
chống phá quyết liệt cách mạng nước ta và chúng rất coi trọng việc lôi kéo, làm
tha hóa đội ngũ cán bộ của Đảng.
Vì vậy, nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ
quân đội, nhất là đội ngũ cán bộ chủ trì không chỉ đáp ứng yêu cầu xây dựng
quân đội về chính trị mà còn có ý nghĩa trực tiếp đánh bại âm mưu “phi chính
trị hóa quân đội” của kẻ thù.
Để
xây dựng bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ quân đội hiện nay, mỗi cơ quan,
đơn vị trong toàn quân phải làm cho mỗi cán bộ, đảng viên kiên định con đường
cách mạng của Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn; thấm nhuần sâu sắc chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách và luật pháp của Nhà nước; tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng;
giữ vững và tăng cường lập trường giai cấp công nhân; kiên trì hai nhiệm vụ
chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; quyết tâm thực hiện thắng lợi công cuộc
đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; có ý chí quyết tâm cao, nhạy
bén, sắc sảo về chính trị, năng lực hoạt động thực tiễn và phương pháp, tác
phong công tác tốt; lối sống trung thực, giản dị, không bị cám dỗ bởi lối sống
thực dụng vì đồng tiền, chạy theo lợi ích vật chất tầm thường; không ngại khó,
ngại khổ, ngại học, ngại rèn; nâng cao năng lực toàn diện, đáp ứng đòi hỏi của
thời kì mới.
Đặc biệt là ở những bước ngoặt khó khăn
nhất của cách mạng, cấp ủy, chỉ huy của đơn vị phải xây dựng được bản lĩnh chính
trị cho từng cán bộ là chủ động, bình tĩnh, không bao giờ tỏ ra dao động, do
dự, chán nản hay sa vào tuyệt vọng. Tăng cường xây dựng ý chí, niềm tin không
gì lay chuyển được và quyết tâm biến ý chí và niềm tin vào hoàn thành tốt nhiệm
vụ.
Có xây dựng được bản lĩnh chính trị vững
vàng như vậy mới bảo đảm cho đội ngũ cán bộ quân đội không bị sa ngã trước sự
lợi dụng, mua chuộc, lôi kéo của kẻ thù hòng làm biến chất đội ngũ cán bộ về
chính trị.
Hết sức cảnh giác với mọi thủ đoạn mua
chuộc, lôi kéo của kẻ thù bằng lợi ích vật chất tầm thường; bằng tiền tài, gái
đẹp làm tha hóa đội ngũ cán bộ dẫn đến bị kẻ thù khống chế, quay lại phản bội
Tổ quốc, phản bội nhân dân.
Bốn là, coi trọng xây
dựng môi trường văn hoá ở các đơn vị quân đội trong sạch, lành mạnh; xây dựng
đạo đức, nhân cách người quân nhân cách mạng.
Môi trường văn hoá tốt đẹp, lành mạnh,
phong phú trong quân đội trực tiếp nuôi dưỡng, phát triển nhân cách của cán bộ,
chiến sĩ một cách toàn diện; góp phần nâng cao trình độ trí tuệ, đạo đức, tình cảm,
tâm hồn, thẩm mỹ, pháp luật, ý thức chính trị; là điều kiện hết sức thuận lợi
để nuôi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”; đồng thời còn góp phần
xây dựng các tổ chức trong quân đội vững mạnh, từng đơn vị thực hiện tốt nhiệm
vụ chính trị của mình. Môi trường văn hoá trong quân đội còn là màng lọc để
ngăn những loại văn hoá độc hại xâm nhập vào quân đội; là hàng rào vô hình, phi
vật chất, từng bước hạn chế và khắc phục những biểu hiện tiêu cực về đạo đức,
lối sống của một bộ phận cán bộ, chiến sĩ trong quân đội ta hiện nay và để
chiến lược “diễn biến hoà bình”, âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” của kẻ thù
không còn đất sống.
Trong tình hình hiện nay, các cơ quan, đơn
vị trong toàn quân tiếp tục đẩy mạnh công tác giáo dục, nâng cao nhận thức, ý
thức trách nhiệm cho cán bộ, chiến sĩ thực hiện cuộc vận động xây dựng “môi
trường văn hoá tốt đẹp, lành mạnh, phong phú” lên một tầm cao mới, nhằm tạo ra
những chuyển biến tích cực trong đời sống văn hoá-tinh thần của bộ đội, xây
dựng ý chí quyết tâm cao vượt qua mọi khó khăn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được
giao.
Bên cạnh đó, các cơ quan, đơn vị phải đề
cao vai trò của các tổ chức, đặc biệt là tổ chức đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo,
chăm lo xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh trong đơn vị mình, nhất là môi
trường văn hoá chính trị và môi trường văn hoá sư phạm; quan tâm xây dựng cảnh
quan môi trường trong đơn vị xanh, sạch, đẹp.
Đồng thời, các đơn vị cần đảm bảo, giữ gìn
sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất, trang bị về văn hoá. Đây là yêu cầu khách
quan cho sự tồn tại và phát triển của môi trường văn hoá. Vì vậy, các đơn vị
cần quan tâm đầu tư đúng mức cho vấn đề này.
Kết hợp chặt chẽ với
địa phương trong xây dựng môi trường văn hoá. Lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị cần
quan tâm thường xuyên tổ chức giao lưu, kết nghĩa với địa phương, đơn vị bạn
với nhiều nội dung, hình thức phong phú để tiếp thu chọn lọc học hỏi những kinh
nghiệm, khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm, trên cơ sở đó thắt chặt mối
quan hệ với nhân dân, các tổ chức đoàn thể địa phương và đơn vị bạn, làm phong
phú thêm đời sống vật chất, tinh thần cho mọi cán bộ, chiến sĩ; góp phần đấu tranh có hiệu quả với âm mưu “phi chính
trị hóa quân đội” của kẻ thù và những biểu hiện sai trái.
Khắc phục với những nhận thức và hành động
sai trái của bất kì cán bộ, chiến sĩ nào trong đơn vị về xây dựng môi trường
văn hoá; đồng thời tránh hiện tượng quản lý quá chặt chẽ bộ đội trong “hàng
rào” để tránh vi phạm kỉ luật; hay không quan tâm đến đời sống tinh thần của bộ
đội, ỷ lại cấp trên hoặc sử dụng không hợp lí kinh phí, trang thiết bị văn hoá,
gây thất thoát, lãng phí.
Năm
là, kiên quyết đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lí luận, vạch trần bản chất
phản động chính trị, phản khoa học của âm mưu “phi chính trị hóa quân đội”.
Để thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa quân
đội”, kẻ thù rất coi trọng phá hoại ta trên lĩnh vực tư tưởng, lí luận. Mục
tiêu của kẻ thù phá hoại ta trên lĩnh vực này là phủ nhận quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội kiểu mới, về bản
chất cách mạng, mục tiêu, lí tưởng chiến đấu cao cả của quân đội ta và gieo
rắc, truyền bá các quan điểm tư sản sai trái phản động về “quân đội trung lập”,
“quân đội phi giai cấp”, làm cơ sở biện minh cho việc tước bỏ sự lãnh đạo của
Đảng ta đối với quân đội, gây tâm lí hoang mang, dao động trong cán bộ, chiến
sĩ. Âm mưu tạo ra những yếu tố làm mất ổn định trong quân đội tiến tới làm suy
yếu về chính trị, vô hiệu hóa quân đội.
Do vậy, đấu tranh với địch trên mặt trận tư
tưởng, lí luận chống âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” có tầm quan trọng đặc
biệt và là mặt trận xung yếu, nóng bỏng, gay go, quyết liệt hiện nay.
Nhiệm vụ cơ bản trong đấu tranh trên lĩnh
vực tư tưởng, lí luận chống âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” hiện nay là:
cùng với việc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lí luận nói chung của toàn
Đảng, quân đội ta phải hết sức coi trọng, góp phần đấu tranh bảo vệ và phát
triển quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân
đội kiểu mới mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc sâu
sắc; đấu tranh mạnh mẽ, không khoan nhượng vạch trần bản chất phản động chính
trị, phản động khoa học của âm mưu “phi chính trị hóa quân đội”. Những luận
điệu về “quân đội trung lập”, “quân đội phi giai cấp” là vô căn cứ, phản khoa
học cả về lí luận và thực tiễn; là nhân danh “dân chủ hóa” để lừa bịp về chính
trị; thực chất là từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội ta, hòng
chuyển hóa lập trường chính trị, bản chất giai cấp công nhân của quân đội.
Trong cuộc đấu tranh
trên lĩnh vực tư tưởng, lí luận, cần tiếp tục khẳng định: QĐNDVN ra đời từ
phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta, được Đảng và Bác Hồ tổ chức và
lãnh đạo. Quân đội ta không có mục tiêu chiến đấu nào khác là độc lập dân tộc
và CNXH để đem lại hạnh phúc, no ấm cho quãng đại quần chúng nhân dân lao động
và của cả dân tộc, đó cũng là mục tiêu chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Để tiến hành đấu tranh trên mặt trận
tư tưởng, lí luận chống âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” có hiệu quả, các cơ
quan, đơn vị trong toàn quân cần tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng; chú trọng và thực hiện tốt công tác
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lí luận trong quân đội có đủ phẩm chất, năng
lực, nhanh nhạy, sắc bén trong đấu tranh và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho
lực lượng này tích cực tham gia đấu tranh với kẻ thù trên mặt trận tư tưởng, lí
luận. Công tác tư tưởng phải góp phần đắc lực trong việc xây dựng, nâng cao bản
lĩnh chính trị cho bộ đội ở mọi lúc, mọi nơi, làm cho họ tự “miễn dịch” trước
những âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù.
Đẩy mạnh việc tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lí luận, sớm kết luận những vấn đề mới và bức xúc từ thực tiễn đấu
tranh âm mưu “phi chính trị hóa quân đội”; nâng cao sự thống nhất với quan
điểm, đường lối của Đảng, sự đồng thuận trong toàn quân và toàn dân.
Năm giải pháp cơ bản đã nêu ở trên, mỗi giải
pháp có vị trí, vai trò khác nhau nhưng đều thống nhất biện chứng không tách
rời nhằm đấu tranh thắng lợi với âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” của kẻ
thù.
Là cán bộ chính trị trong quân đội, trước hết bản
thân nhận thức sâu sắc bản chất, âm mưu, thủ đoạn nham hiểm âm mưu “phi chính
trị hóa quân đội” của kẻ thù; tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với
nhân dân, tin tưởng vững chắc vào sự lãnh đạo của Đảng, vào thắng lợi của công
cuộc đổi mới đất nước; tích cực học tập, rèn luyện mọi mặt, nâng cao nhận thức
về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt sâu sắc đường lối,
quan điểm của Đảng trong sự nghiệp xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc; thường
xuyên nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ lí luận chính trị; vận dụng sáng
tạo những kiến thức đã được học để đấu tranh kiên quyết không khoan nhượng với
các luận điệu thù địch nói chung và luận điệu “phi chính trị hóa quân đội” nói
riêng bằng nhiều hình thức, nhất là trên các phương tiện thông tin đại chúng;
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Tóm lại, âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” là thủ đoạn cực kì nham hiểm, thâm độc trong chiến lược “diễn biến hoà bình” và bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch nhằm tước bỏ sự lãnh đạo của Đảng với quân đội ta; làm cho quân đội mất phương hướng, mục tiêu lí tưởng chiến đấu, dẫn đến suy yếu về chính trị, bị “vô hiệu hóa”. Vì vậy, đấu tranh làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” của kẻ thù là yêu cầu cấp bách trong xây dựng quân đội vững mạnh toàn diện, trong đó xây dựng về chính trị làm cơ sở. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần nhận thức đầy đủ tính cấp thiết của nhiệm vụ đấu tranh làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” và mức độ nguy hiểm của âm mưu này; thường xuyên nâng cao cảnh giác cách mạng, quyết tâm và có chủ trương, hình thức, biện pháp đấu tranh có hiệu quả, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, góp phần làm thất bại hoàn toàn chiến lược “diễn biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Mỗi cán bộ, chiến sĩ trong quân đội cần nhận thức sâu sắc bản chất, âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa quân đội” của kẻ thù để có biện pháp đấu tranh có hiệu quả; kiên quyết phê phán những nhận thức mơ hồ, sai trái.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.
|
Đảng
cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001.
|
2.
|
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H, 1995.
|
3.
|
C.Mác
và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H, 1995.
|
4.
|
V.I. Lênin, Toàn tập, tập 12, Nxb TB, M. 1979.
|
5.
|
V.I. Lênin, Toàn tập, tập 26, Nxb TB, M. 1980.
|
6.
|
V.I. Lênin, Toàn tập, tập 33, Nxb TB, M. 1976.
|
7.
|
V.I. Lênin, Toàn tập, tập 38, Nxb TB, M. 1978.
|
0 nhận xét:
Đăng nhận xét