Những chính sách hà khắc của thực dân Pháp, cùng với sự bóc lột của tầng
lớp địa chủ, cường hào làm cho người dân Việt Nam “một cổ, hai tròng”, sống lầm
than, cực khổ. Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã thông qua Cương
lĩnh chính trị đầu tiên, trong đó khẳng định “chủ trương làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào đấu tranh ở cả ba miền Bắc,
Trung, Nam ngày càng phát triển. Nhiều cuộc đấu tranh của công nhân trong các hầm
mỏ, nhà máy, xí nghiệp và nông dân cũng diễn ra ở nhiều nơi, với các hình thức
như đòi tăng lương, giảm giờ làm; chia ruộng đất, đòi bãi bỏ các sưu, thuế vô
lý. Cao trào cách mạng đã diễn ra trên 25 tỉnh, thành trong cả nước, đặc biệt mạnh
mẽ từ ngày Quốc tế Lao động 1-5-1930.
Sáng ngày 1-5-1930, công nhân khu công nghiệp Vinh - Bến Thủy (Nghệ An)
và nông dân các huyện lân cận biểu tình đòi tăng lương, giảm giờ làm, bỏ sưu,
giảm thuế, chống khủng bố, ủng hộ cuộc đấu tranh của công nhân nhà máy dệt Nam
Định, ủng hộ Liên bang Xô Viết. Ngày 1-8-1930, công nhân ở đây tổng bãi công,
nông dân Nghệ - Tĩnh đã tổ chức nhiều cuộc biểu tình có vũ trang tự vệ kéo đến
các huyện đường Can Lộc, Nam Đàn, Thanh Chương, Nghi Lộc và lan rộng ra hầu khắp
các huyện trong 2 tỉnh.
Ngày 1-9, hơn 20.000 nông dân Thanh Chương biểu tình đòi bỏ thuế, thả
tù chính trị. Lính Pháp nổ súng, nhưng những người biểu tình vẫn tiến vào huyện
đường, phá nhà giam, thả tù nhân, đốt hồ sơ, sổ sách và dinh tri huyện. Trước sức
mạnh của nhân dân, bọn hào lý phải bỏ chạy. Hầu hết các làng, xã thuộc huyện
Thanh Chương rơi vào tình thế không có chính quyền quản lý. Nông dân huyện Anh
Sơn biểu tình ủng hộ nhân dân Thanh Chương với các khẩu hiệu “bãi bỏ thuế thân”,
“chia lại ruộng đất”, “thả tù chính trị”.
Tiếp đó, trong 2 ngày 5-9 và 7-9, nông dân 2 huyện Diễn Châu, Can Lộc đốt
phá nhà giam. Từ ngày 8 đến ngày 11-9, khí thế đấu tranh càng sục sôi khi hàng
chục nghìn nông dân huyện Nam Đàn, Thanh Chương, Diễn Châu, Can Lộc... nổi dậy.
Đỉnh cao của phong trào là cuộc đấu tranh của 8.000 nông dân huyện Hưng
Nguyên ngày 12-9, với khẩu hiệu: “Đả đảo chủ nghĩa đế quốc! Đả đảo phong kiến”.
Đoàn biểu tình kéo về thành phố Vinh. Thực dân Pháp đã cho máy bay ném bom xả
súng liên thanh vào đoàn biểu tình, làm 217 người chết, 125 người bị thương, đốt
cháy 177 nóc nhà. Hai làng Lộc Châu và Lộc Hải bị thiêu rụi hoàn toàn.
Thường mỗi đoàn đi biểu tình của mỗi thôn, xóm mang theo 3 đến 4 chiếc
trống, nhưng khi đã kết liền thành tổng, thành huyện, để kéo vào nhà máy, huyện
đường đấu tranh thì mỗi đoàn có đến 10 đến15 chiếc trống. Có đoàn như cuộc biểu
tình ở Thái Lão - Hưng Nguyên; Cầu Bùng - Diễn Châu (Nghệ An); Thạch Hà, Can Lộc,
Hương Khê (Hà Tĩnh) có trên 20 chiếc trống. Trống được huy động ở các đình
làng, nhà thờ của dòng họ hoặc trong mỗi gia đình. Có những chiếc trống lớn phải
hai ba người khiêng, đánh lên vang vọng khắp vùng. Khi xuống đường đấu tranh,
tiếng trống hoà vào âm thanh của tiếng hô đòi cơm áo ruộng đất của quần chúng,
hoà vào màu cờ đỏ búa liềm, cùng với tiếng phèng la, tù và, tiếng trống đã làm
áp đảo tinh thần quân thù. Vì vậy, mới chỉ nghe tiếng trống và tiếng hô thôi,
tri huyện Thanh Chương phải khúm núm xin đầu hàng; Tri huyện khét tiếng Trần Mạnh
Đàn ở Can Lộc đã run lẩy bẩy ra tận Cầu Nghèn để ký vào yêu sách của đoàn biểu
tình. Nghe trống nổi lên, hương hào, hương lý ở các thôn xóm có phong trào cách
mạng mạnh đã phải ra đình làng để nộp triện, trao lại chính quyền cho công
nông.
Cũng đi trong các đoàn biểu tình, tiếng trống đã thay lời hiệu triệu,
thúc dục làng trên xóm dưới, tổng này xã nọ, liên kết với nhau thành một khối
thống nhất. Tiếng trống đánh lên, sức truyền cảm từ âm thanh tạo nên một khí thế
xung trận, bất chấp sự đàn áp tàn bạo của bọn thực dân phong kiến, quần chúng
cách mạng sục sôi khí thế ào lên như vũ bão, xông thẳng vào giữa sào huyệt của
kẻ thù để đập phá các nhà máy, huyện đường, đòi tiền lương và ruộng đất. Tiếng
trống trong các cuộc đấu tranh năm (1930-1931) đã tạo nên một sức mạnh, ý chí
quật cường không sợ hy sinh trước sự đàn áp giã man của kẻ thù
Cuộc đấu tranh càng thêm sôi sục, khiến chính quyền thực dân hết sức lo
sợ. Bộ máy của thực dân và phong kiến tay sai ở nhiều huyện, xã bị tê liệt, tan
rã. Các tổ chức đảng đã kịp thời lãnh đạo quần chúng tự đứng ra quản lý đời sống
của mình, thực hiện nhiệm vụ của chính quyền nhân dân theo hình thức Xô Viết.
Chính quyền Xô Viết (Nông hội) được thành lập. Nông hội đã ban hành và thực thi
nhiều chủ trương, chính sách đem lại lợi ích cho nhân dân như: Ban bố quyền tự
do dân chủ, tổ chức cho nhân dân tham gia các đoàn thể cách mạng, trừng trị bọn
phản cách mạng, giữ gìn trật tự an ninh; chia lại công điền, công thổ cho nông
dân, thực hiện giảm tô, xóa nợ, thủ tiêu các thứ thuế vô lý... tỏ rõ bản chất
cách mạng và tính ưu việt của mình - thực sự là một chính quyền của dân, do dân
và vì dân.
XVNT đã trở thành ngọn cờ quy tụ và là nguồn cổ vũ mạnh mẽ nhân dân lao
động trong cả nước. Từ đó làm lan tỏa phong trào đấu tranh ở Nam Kỳ phát triển
mạnh mẽ hơn, tiêu biểu là cuộc bãi công của công nhân nhà máy rượu Chợ Lớn, ở
Công ty Dầu lửa Sài Gòn và các cuộc biểu tình của hàng ngàn nông dân ở Hóc Môn,
Trà Vinh, Sa Đéc...
Tuy XVNT chỉ tồn tại trên 7 tháng trong hai năm 1930-1931 và dù còn sơ
khai, nhưng đã để lại những dấu ấn về một Nhà nước công - nông chưa có tiền lệ
trong lịch sử ở một đất nước bị chìm đắm trong nô lệ; đáp ứng khát vọng độc lập,
tự do của quần chúng lao khổ. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Tuy đế quốc
Pháp đã dập tắt phong trào đó trong một biển máu, nhưng XVNT đã chứng tỏ tinh
thần oanh liệt và năng lực cách mạng của nhân dân lao động Việt Nam. Phong trào
tuy thất bại, nhưng nó rèn lực lượng cho cuộc Cách mạng Tháng Tám thắng lợi sau
này”
XVNT đã để lại cho chúng ta nhiều bài học và kinh nghiệm quý báu, đó là
vấn đề ruộng đất và dân cày; vấn đề đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh
vũ trang, từng bước tạo thế và lực để dân tộc ta đi tới thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945.
Đó là bài học về kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước, bất khuất,
quật cường của dân tộc, quyết không chịu làm nô lệ; đảm bảo vai trò lãnh đạo của
Đảng, thường xuyên đấu tranh chống “tả khuynh” và “hữu khuynh” để giữ vững tính
chất giai cấp công nhân của Đảng, làm cho Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức.
Đó còn là bài học to lớn về sức lôi cuốn, tập hợp đông đảo các tầng lớp
nhân dân thông qua đường lối, chủ trương, khẩu hiệu đúng đắn của Đảng, đáp ứng
được khát vọng cháy bỏng của nhân dân; thường xuyên chăm lo xây dựng, củng cố
khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở liên minh công nông vững chắc; bài học
về nghệ thuật sử dụng những hình thức và phương pháp cách mạng thích hợp với từng
hoàn cảnh lịch sử cụ thể để giành, giữ chính quyền.
NXĐ-BC
0 nhận xét:
Đăng nhận xét