Bảo đảm an ninh con người vừa là
mục tiêu phấn đấu, vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định chính trị xã hội và
phát triển đất nước hùng cường, thịnh vượng. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII, lần đầu tiên Đảng ta đã đề cập vấn đề “an ninh con người” với tư cách
là một nội dung lý luận mới. Thuật ngữ “an ninh con người” thể hiện trên các
phương diện: an ninh kinh tế, an ninh lương thực, an ninh sức khỏe, an ninh môi
trường, an ninh cá nhân, an ninh cộng đồng và an ninh chính trị. Thể hiện vị
trí trung tâm của chiến lược phát triển, một bộ phận quan trọng của an ninh quốc
gia. Chăm lo, phát triển con người là tiền đề bảo đảm an ninh con người.
Trải qua 35 thực hiện đường lối đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều
thành tựu to lớn, đất nước “chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy
tín quốc tế như ngày nay”. Tuy nhiên, chúng ta vẫn đang phải đối mặt với nhiều
khó khăn, thách thức, “nguy cơ” lớn. Đó là sự tụt hậu kinh tế, rơi vào bẫy thu
nhập trung bình; sự hạn chế trong việc phát triển văn hóa, đảm bảo phúc lợi xã
hội, đảm bảo thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; sự diễn biến phức tạp của
tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên; sự tác động tiêu cực của thiên
tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu; sự chống phá của các thế lực thù địch. Những
nguy cơ này đều ảnh hưởng tiêu cực đến sự nghiệp đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội
của Việt Nam, trong đó có mục tiêu phát triển con người, đảm bảo an ninh con
người. Vì vậy, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng Cộng sản Việt
Nam lần đầu tiên đã đưa vấn đề “an ninh con người” vào Văn kiện Đại hội với tư
cách là một nội dung lý luận mới. Thuật ngữ “an ninh con người” cũng được sử dụng
12 lần trong việc xác lập định hướng phát triển đất nước trong thời kỳ 2021 –
2030 và nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ đại hội, cũng như các nhiệm vụ,
phương hướng, giải pháp cụ thể khác.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã xác định mục tiêu “Khơi dậy khát
vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết
hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới;
xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn
đấu đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa”. Chúng ta thực hiện mục tiêu trên trong điều kiện mới của quốc tế,
khu vực và đất nước ta đang đứng trước hàng loạt các thách thức đặt ra cần giải
quyết về an ninh trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, tư tưởng - văn hóa, xã hội;
các mối đe dọa hiện hữu từ môi trường như: thiên tai, lũ lụt, hạn hán, nước biển
dâng, ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không khí, rác thải, hóa chất tồn dư, gây nhiều
bệnh tật cho con người và sức khỏe cộng đồng; vấn đề việc làm, nạn thất nghiệp,
sự mất cân đối trong phát triển kinh tế, an toàn lao động, an toàn giao thông,
an ninh cộng đồng; nguy cơ tự diễn biến, tự chuyển hóa, sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, dịch bệnh toàn cầu (Covid-19)… tất cả đã và đang
đe dọa nghiêm trọng đến an ninh xã hội, an ninh con người, là vấn đề hết sức cấp
thiết trong giai đoạn hiện nay.
Có nhiều quan niệm về an ninh con người, trong đó khái niệm “an ninh
con người” lần đầu tiên được Chương trình phát triển Liên hợp quốc sử dụng vào
năm 1994 trong Báo cáo hàng năm về sự phát triển của con người được công nhận
và sử dụng phổ biến, báo cáo xác định xác định “an ninh con người là sự an toàn
của loài người trước những mối đe dọa kinh niên như nghèo đói, bệnh tật, đàn áp
và những biến cố bất ngờ, bất lợi trong cuộc sống hàng ngày”. Theo quan điểm
này, bảo đảm an ninh con người được thể hiện trên các phương diện: an ninh kinh
tế, an ninh lương thực, an ninh sức khỏe, an ninh môi trường, an ninh cá nhân,
an ninh cộng đồng và an ninh chính trị. Đảm bảo được an ninh con người sẽ là
nhân tố quan trọng để bảo đảm an ninh xã hội, an ninh toàn cầu.
Ở Việt Nam, vấn đề bảo đảm an ninh con người luôn được Đảng và Nhà nước
quan tâm. Bản Tuyên ngôn Độc lập được Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ
lâm thời đọc tại Quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945 khẳng định: “Tất cả mọi người
đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm
phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc”.
Trong rất nhiều nghị quyết đại hội Đảng cũng đã xác định nội dung phát
triển con người toàn diện. Trước Đại hội XIII của Đảng, ở nước ta chưa xuất hiện
khái niệm an ninh con người với tư cách là một vấn đề lý luận. Lần đầu tiên “an
ninh con người” được xác định trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng. Trong phương
hướng nhiệm vụ của quản lý phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội,
Đại hội XII xác định: “Đẩy mạnh các giải pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm
và tệ nạn xã hội; giảm thiểu tai nạn giao thông; bảo đảm an toàn xã hội, an
ninh con người”.
Đến Đại hội XIII của Đảng vấn đề “an ninh con người” tiếp tục được đề cập
và được xem như một vấn đề lý luận. Đây cũng là một trong nhiều nội dung rất mới
mà Đại hội đặt ra. Trong sáu nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ Đại hội XIII có
nhiệm vụ “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; giữ gìn
và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế; thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm
an ninh xã hội, an ninh con người; nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh
phúc của con người Việt Nam”, v.v.
Như vậy, trong quan điểm của Đảng ta, an ninh con người có vị trí, vai
trò hết sức quan trọng, thể hiện thông qua một số luận điểm sau:
An ninh con người là trung tâm của chiến lược phát triển
Trước hết, Đại hội xác định việc bảo đảm an ninh con người thực chất là
việc phát huy nhân tố con người, đề cao nhân tố con người, đặt con người vào vị
trí trung tâm của chiến lược phát triển, nhằm bảo đảm cho sự phát triển bền vững
của con người và xã hội. Kế thừa quan điểm trong Chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội 2011-2020, Nghị quyết Đại hội XIII đã phát triển lên một tầm cao mới
nhằm phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam: “Phát huy tối
đa nhân tố con người, coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng
nhất và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là
nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng đảm bảo sự phát triển bền vững”.
Bên cạnh đó, Đại hội xác định bảo vệ an ninh con người nhằm bảo đảm cho
sự phát triển bền vững của con người và xã hội: “Tăng cường quản lý phát triển
xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các chính sách
xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an ninh xã hội, an ninh con người”. Đây là sự
tiếp nối nhất quán nhận thức của Đảng về vai trò, vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng
của việc giải quyết các vấn đề xã hội như một nội dung đặc biệt quan trọng vì mục
tiêu phát triển con người. Đó cũng là hạt nhân của định hướng XHCN trong các
chính sách phát triển kinh tế - xã hội nói chung, thể hiện tính ưu việt của chế
độ xã hội ta, chế độ của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, luôn lấy con người
làm mục tiêu phát triển. Có thể khẳng định, Nhân dân luôn là trung tâm trong mọi
hoạch định chính sách, quyết nghị của Đảng ta. Ý Đảng - Lòng Dân chính là kim
chỉ nam, cội nguồn sức mạnh để đất nước vững bước đi lên, vì mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Như vậy, an ninh con người được Đại hội XIII thể hiện rõ nét cả trong định
hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030; về quản lý phát triển xã hội bền
vững, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội; về quản lý và sử dụng hiệu quả đất
đai, tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu; về
tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN; về những
nhiệm vụ trọng tâm, các đột phá chiến lược trong nhiệm kỳ Đại hội XIII và trong
nhiều nội dung quan trọng khác, đặc biệt là được mở rộng và thể hiện một cách
bao trùm trong tất cả các mặt của cuộc sống của con người và các lĩnh vực của đời
sống xã hội, từ chính trị, kinh tế cho đến văn hóa, xã hội, quốc phòng, an
ninh, bảo vệ môi trường, giáo dục, y tế… Điều này không chỉ thể hiện quyết tâm
chính trị của Đảng trong việc bảo đảm an ninh con người trong bối cảnh mới mà
quan trọng hơn là từng bước làm cho vấn đề an ninh con người được thẩm thấu
trong suy nghĩ và trong hành động của các cơ quan, nhân viên nhà nước, trong
các cấp, các ngành và trong toàn xã hội, vì sự an toàn của mỗi cá nhân nói
riêng và toàn xã hội nói chung.
Một bộ phận quan trọng của an ninh quốc gia
Đại hội XIII xác định bảo vệ an ninh con người là bảo vệ an ninh quốc
gia, coi an ninh con người là một bộ phận của an ninh quốc gia. Tại Hội nghị
toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền Nghị quyết Đại hội XIII
của Đảng, Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm đã khẳng định: “Đại hội đã đưa ra nhận thức
mới về an ninh quốc gia một cách toàn diện hơn, rộng hơn, sâu hơn, không chỉ có
các vấn đề an ninh chính trị, quân sự truyền thống, mà còn bao quát cả những vấn
đề an ninh phi truyền thống”. Theo đó, an ninh quốc gia bao gồm: An ninh chính
trị, an ninh kinh tế, an ninh quân sự, an ninh biên giới, biển, đảo, an ninh đối
ngoại, an ninh tư tưởng - văn hóa, an ninh xã hội, an ninh thông tin, an ninh kết
nối, an ninh mạng, an ninh doanh nghiệp, an ninh tài chính - tiền tệ, an ninh
năng lượng, an ninh lương thực, an ninh dân cư, an ninh dân số, an ninh cơ sở dữ
liệu, an ninh môi trường, an ninh con người… Mối quan hệ giữa an ninh con người
và an ninh quốc gia là mối quan hệ thống nhất biện chứng hữu cơ với nhau. Bảo vệ
an ninh quốc gia cũng chính là bảo vệ an ninh con người, bảo vệ cuộc sống bình
yên, hạnh phúc của người dân.
Đồng thời, với tư cách là thành viên của xã hội, mọi người dân có quyền
được bảo đảm an ninh quốc gia để bảo đảm và thực hiện các quyền không thể thiếu
về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và an ninh lãnh thổ. Bảo đảm an
ninh quốc gia là trách nhiệm quan trọng nhất của quốc gia, cũng chính là nhằm bảo
đảm an ninh con người. Ngược lại, không thể bảo đảm vững chắc an ninh quốc gia
nếu như không bảo đảm an ninh con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định:
“Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng
có nghĩa lý gì”.
Chăm lo, phát triển con người - tiền đề bảo đảm an ninh con người
Văn kiện Đại hội XIII chỉ rõ mối quan hệ giữa văn hóa và con người, đặc
biệt chú trọng vấn đề chăm lo, giáo dục, bồi dưỡng phát triển con người. Trong
điều kiện đất nước ngày càng phát triển, hội nhập ngày càng sâu rộng vào các tiến
trình của thế giới, việc gắn bó chặt chẽ mối quan hệ giữa “hệ giá trị quốc gia,
hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người” với “hệ giá trị gia đình Việt Nam”
là một nhận thức mới, trong đó đặt hệ giá trị gia đình vào vị thế vốn rất quan
trọng của nó, với tư cách là các tế bào của xã hội, là hạt nhân lưu giữ và phát
huy các hệ giá trị quốc gia, giá trị văn hóa, con người Việt Nam. Hơn nữa, gia
đình là môi trường giáo dục đầu tiên vô cùng quan trọng, đặc biệt là nơi hình
thành và nuôi dưỡng những mầm móng đầu tiên có ý nghĩa định hướng về tính cách
của mỗi con người. Vì thế, đây cũng chính là cách đặt vấn đề về sự cần thiết phải
quan tâm, có những giải pháp, điều kiện tích cực hơn trong việc xây dựng và
phát huy hệ giá trị gia đình Việt Nam trong điều kiện mới, vì mục tiêu bảo đảm
an ninh con người một cách bền vững.
Trong vấn đề phát triển con người để hướng tới bảm an ninh con người, Đảng
ta chú trọng nhấn mạnh đến giáo dục và bảo vệ trẻ em, thanh niên, thiếu niên và
nhi đồng, coi đây là đối tượng quyết định tương lai của đất nước, cần được giáo
dục, bồi dưỡng toàn diện, song cũng là lớp người dễ bị tổn thương, cần được
quan tâm và bảo vệ tốt hơn nữa. Lần đầu tiên trong văn kiện chính thức của Đảng
đặt vấn đề “khắc phục những hạn chế” trong mối quan hệ hữu cơ, không tách rời với
việc giáo dục, phát huy những đức tính tốt đẹp của con người Việt Nam đã được
hình thành trong lịch sử.
Thực tế đã chứng minh, sau 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam
đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử quan trọng liên quan đến
vấn đề an ninh con người. Cụ thể theo 7 tiêu chí của Liên Hợp quốc như sau:
Về an ninh kinh tế: Đảng và Nhà nước ta có nhiều chủ trương bảo đảm
mức thu nhập cơ bản của con người. Từ chỗ đề cao quá mức lợi ích của tập thể một
cách chung chung, trừu tượng; thi hành chế độ phân phối theo lao động trên danh
nghĩa nhưng thực tế là cào bằng, đã từng bước thực hiện phân phối chủ yêu theo
kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời căn cứ theo mức đóng góp vốn và
các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Mức sống
chung của người dân từng bước được nâng lên. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm bình
quân 1,5-2%/năm. Năm 1993, tỷ lệ hộ nghèo cả nước là 58,1%, năm 2015 tỷ lệ hộ
nghèo theo chuẩn đa chiều còn 9,88%; đến năm 2020 còn dưới 3%. Thành tựu và giảm
nghèo của Việt Nam đã được Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế công nhận, đánh
giá cao.
Từ chỗ Nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc làm đã dần dần
chuyển trọng tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các thành phần kinh tế và
người lao động đều tham gia tạo việc làm. Bộ Luật lao động được sửa đổi nhiều lần
qua các năm (2002, 2006, 2007, 2012) đã tạo ra hành lang pháp lý cho việc hoàn
thiện các tiêu chuẩn lao động. Xây dựng và triển khai Luật việc làm, nghiên cứu
xây dựng Chương trình làm việc công. Mỗi năm bình quân tạo ra khoảng 1,6 triệu
việc làm mới. Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi duy trì ở
mức thấp và giảm dần. Tỷ lệ thất nghiệp tại khu vực thành thị giảm từ mức 3,37%
năm 2015, xuống còn khoảng 3,1% năm 2019.
Về an ninh lương thực: Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng việc bảo
đảm an ninh lương thực. Từ chỗ nước ta phải đi nhập khẩu gạo, đến nay đã trở
thành một những nước xuất khẩu gạo nhiều nhất thế giới. Đảng và Nhà nước ta đã
giữ diện tích trồng lúa để bảo đảm an ninh lương thực. Vì lợi nhuận trồng lúa
không cao, nên Đảng và Nhà nước ta đề ra và thực hiện chủ trương sử dụng linh
hoạt đất trồng lúa, giảm diện tích trồng lúa để chuyển sang những cây, con khác
có lợi nhuận cao hơn, nhưng vẫn bảo đảm an ninh lương thực. Một khi nơi nào đó
khó khăn về tiếp cận nguồn lương thực, Đảng và Nhà nước đã quyết định cấp phát
gạo cho dân với quyết tâm không đề người dân nào bị chết đói. Trong điều kiện rất
khó khăn trước tác động của đại dịch Covid-19, Nhà nước có nhiều biện pháp hỗ
trợ người dân, kể cả người dân giúp nhau (cây ATM gạo, livestream để bán vải
thiều,...). Đây cũng là một ưu việt của chế độ ta.
Về an ninh y tế: Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng việc bảo đảm sức
khỏe cho mọi người dân. Điều 38, Hiến pháp năm 2013 quy định: Mọi người có quyền
được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế
và có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh.
Nghiêm cấm các hành vi đe dọa cuộc sống, sức khỏe của người khác và cộng đồng.
Hệ thống cơ sở y tế đã được hình thành trong cả nước; số bác sĩ, số giường bệnh
trên một người dân tăng nhanh. Hệ thống dịch vụ y tế ngày càng được nâng cao chất
lượng. Trong 10 năm gần đây, các quan điểm, chủ trương của Đảng đã được thể chế
hóa trong Hiến pháp năm 2013 và nhiều luật liên quan đến lĩnh vực y tế, dân số.
Trong lĩnh vực y tế, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách
tương đối toàn diện, coi trọng việc xây dựng thể chế, làm tốt công tác y tế dự
phòng, bảo đảm an ninh y tế. Chất lượng dân số từng bước được cải thiện, tuổi
thọ trung bình đến năm 2020 ước đạt 73,7 tuổi; tăng so với năm 2015 là 73,3 tuổi.
Hệ thống y tế dự phòng từ trung ương đến địa phương và mạng lưới y tế cơ sở tiếp
tục được củng cố và phát triển. Đã triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, từng bước
giải quyết được tình trạng quá tải bệnh viện truyến trên và tăng cường thực hiện
các giải pháp nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh; phát triển và nhân rộng mô
hình bác sĩ gia đình. Ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin trong khám, chữa bệnh
và chăm sóc sức khỏe nhân dân, đặc biệt là triển khai nền tảng hỗ trợ tư vấn
khám, chữa bệnh trực tiếp, từ xa. Công nghiệp được phát triển khá. Tỷ lệ người
tham gia bảo hiểm y tế đến năm 2020 đạt 90,7%, tăng mạnh so với năm 2015
(76,5%) vượt mục tiêu đề ra (80%).
Về an ninh môi trường: Đảng và Nhà nước ta ngày càng nhận thức rõ
hơn, đầy đủ hơn về bảo vệ môi trường. Điều 43, Hiến pháp năm 2013 quy định: Mọi
người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi
trường. Trong những năm qua nhận thức về tầm quan trọng của bảo vệ môi trường, ứng
phó với biến đổi khí hậu được nâng lên. Các hoạt động trong lĩnh vực này đã thu
được một số kết quả bước đầu quan trọng. Một số chỉ tiêu môi trường đạt và vượt
kế hoạch. Tỷ lệ người dân đô thị được cấp nước sạch qua hệ thống cấp nước tập
trung đến năm 2020 đạt khoảng 90%, tỷ lệ người dân nông thôn sử dụng nguồn nước
ăn uống hợp vệ sinh ước đạt 90,2%, tăng mạnh so với năm 2015 (86,2%). Tỷ lệ khu
công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung
đạt tiêu chuẩn môi trường năm 2020 là 90%. Tỷ lệ che phủ rừng đến năm 2020 đạt
42%. Nhà nước và các cơ quan quản lý đã xây dựng và ban hành nhiều chính sách
quản lý và tăng cường đầu tư cho lĩnh vực này. Đã thành lập được các cơ quan
nghiên cứu và dự báo, quản lý rủi ro. Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, sẵn
sàng phòng, chống thiên tai kịp thời, hiệu quả. Hợp tác quốc tế về quản lý tài
nguyên, ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai được đẩy mạnh; đã
tham gia nhiều tổ chức của thế giới về các lĩnh vực này.
Về an ninh cá nhân: Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng việc bảo vệ
các cá nhân trước các hành vi bạo lực. Khoản 1, Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy
định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về
sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình
hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh
dự, nhân phẩm”. Trong bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều phức tạp,
chúng ta đã kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn
xã hội. Đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình”, hoạt động phá hoại,
gây rối, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; bước đầu đối phó có hiệu quả
với mối đe dọa an ninh phi truyền thống, kiềm chế được tốc độ gia tăng tội phạm.
Về an ninh cộng đồng: Đảng và Nhà nước ta chú ý bảo vệ an ninh cộng
đồng nhằm bảo đảm an toàn cho mọi người.
Về an ninh chính trị: Đảng và Nhà nước ta ngày càng nhận thức và
thực hiện việc bảo vệ con người không phải chịu sự đàn áp, ngược đãi, đe dọa
hay xâm hại của các lực lượng thuộc quyền lực nhà nước. An ninh chính trị gắn
liền với sự bảo đảm tôn trọng các yếu tố cơ bản của con người. Hiến pháp năm
2013 đã bổ sung “quyền con người” vào tên chương so với Hiến pháp năm
1992 và chuyển từ Chương 5 thành Chương 2 sau Chương 1. Chế độ chính trị. Trong
Chương này đã thêm nhiều điều quy định về quyền con người. Điều 14 quy định: Ở
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về
chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ,
bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể
bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc
phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của
cộng đồng. Nhiều bộ luật, luật khác cũng có những quy định liên quan đến an
ninh chính trị.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, Đại hội XIII chỉ rõ:
Quản lý phát triển xã hội và giải quyết một số vấn đề xã hội chưa được quan tâm
đúng mức, chưa được kết hợp đồng bộ, chặt chẽ trong quá trình phát triển kinh tế,
văn hóa; thể chế quản lý xã hội còn nhiều hạn chế; tình trạng gia tăng tội phạm,
tệ nạn, tiêu cực, mâu thuẫn, xung đột xã hội... ở một số nơi chậm được khắc phục,
gây bức xúc trong dư luận nhân dân. Giảm nghèo chưa bền vững, chưa có giải pháp
hữu hiệu để xử lý vấn đề phân hóa giàu - nghèo, gia tăng bất bình đẳng về thu
nhập, kiểm soát và xử lý các mâu thuẫn, xung đột xã hội. Chất lượng dịch vụ y tế,
nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn,
có mặt còn bất cập. Chính sách tiền lương, thu nhập, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
y tế, phúc lợi xã hội có mặt còn hạn chế; thụ hưởng của người dân từ thành tựu
phát triển của đất nước chưa hài hòa. Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và
khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu còn bất cập. Cụ thể như sau:
Về an ninh kinh tế: Số người thiếu việc làm và việc làm không xác
định còn nhiều. Chính sách tiền lương chậm được cải cách; tiền lương của đại bộ
phận cán bộ công chức, viên chức, người lao động thấp, lương tối thiểu chưa đảm
bảo đủ mức sống tối thiểu. Chất lượng việc làm còn thấp. Tỷ lệ người lao động
làm các công việc không ổn định còn nhiều. Tỷ lệ lao động khu vực phi chính thức
còn cao, thiếu chế tài để bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động ở khu
vực này. Đời sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn, nhất là đồng bào
dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn. Kết quả giảm nghèo đa chiều chưa thực
sự bền vững, nguy cơ tái nghèo còn cao.
Về an ninh lương thực: Một bộ phận người dân ở vùng sâu, vùng xã,
vùng đặc biệt khó khăn, kể cả một bộ phận công nhân, việc tiếp cận nguồn lương
thực cơ bản còn khó khăn, chưa bảo đảm chất dinh dưỡng cho một cuộc sống hiệu
quả và khỏe mạnh. Chất lượng cuộc sống chưa cao.
Về an ninh y tế: Chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh và khả năng tiếp
cận dịch vụ y tế cơ bản còn có sự chênh lệch khá lớn giữa các tuyến và giữa các
vùng, miền. Kết cấu hạ tầng, trang thiết bị y tế một số nơi thiếu, chưa đạt
tiêu chuẩn. Công tác y tế dự phòng yếu. Công tác quản lý thuốc chữa bệnh còn lỏng
lẻo, nhất là tuyến cơ sở. Việc khắc phục tình trạng quá tải bệnh viện còn chậm,
nhất là tuyến cuối. Công tác y tế dự phòng có mặt còn bấp cập. Quản lý nhà nước
về hoạt động y tế tư nhân, thuốc chữa bệnh, vệ sinh an toàn thực phẩm còn nhiều
yếu kém.
Về an ninh môi trường: Tình trạng ô nhiễm môi trường chậm được cải
thiện; ô nhiễm môi trường ở nhiều nơi còn nghiêm trọng, nhất là tại một số làng
nghề, lưu vực sông; xử lý vi phạm môi trường chưa nghiêm. Việc khắc phục hậu quả
về ô nhiễm môi trường do chiến tranh để lại còn nhiều khó khăn. Chất lượng dự
báo, nguồn lực và năng lực phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu
chưa đáp ứng yêu cầu. Tình trạng ngập úng ở một số thành phố lớn và xâm nhập mặn
diễn biến ngày càng phức tạp.
Về an ninh cá nhân: An ninh, trật tự và an toàn xã hội trên một số
địa bàn còn phức tạp. Công tác bảo đảm an toàn, an ninh thông tin, an ninh mạng
còn nhiều diễn biến phức tạp. Môi trường văn hóa còn tồn tại những biểu hiện
thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội và một số
loại tội phạm có chiều hướng gia tăng.
Về an ninh cộng đồng: Con người cảm thấy không an toàn, luôn có cảm
giác bất an.
Về an ninh chính trị: Tình
trạng tách rời, thậm chí đối lập giữa dân chủ. Quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều
nơi, nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm. Có lúc, có nơi, việc thực hiện dân chủ còn
hạn chế hoặc mang tính hình thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rõ, mất
đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Theo dự báo của Đại hội XIII, thế giới đang trải qua những biến động to
lớn, phức tạp, gia tăng nhiều rủi ro với môi trường kinh tế, chính trị và an
ninh quốc tế. Với Việt Nam, các nguy cơ được Đảng ta dự báo trước đây không chỉ
vẫn tồn tại mà có mặt còn diễn ra gay gắt hơn, “tiến bộ và công bằng xã hội”,
“an ninh con người” đứng trước nhiều thử thách to lớn, đòi hỏi phải kịp thời giải
quyết. Để triển khai thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân, cả hệ thống chính trị cần quán triệt sâu sắc, thống
nhất nhận thức và hành động theo quan điểm của Đảng về vấn đề an ninh con người;
trong đó, tập trung vào các vấn đề sau:
Trước hết, đẩy mạnh phát triển kinh tế nhanh, bền vững, nâng cao chất
lượng cuộc sống của Nhân dân. Để bảo đảm an ninh con người cần phải xây dựng và
phát triển một nền kinh tế ổn định, chất lượng, năng suất, hiệu quả; giải quyết
hài hòa giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của Nhân dân.
Vấn đề thứ hai, bảo đảm an ninh lương thực, chú trọng xóa đói, giảm
nghèo bền vững, thực hiện tốt công tác an sinh xã hội, tạo việc làm cho người
dân. Phấn đấu sớm hoàn thành các mục tiêu, chương trình vì sự phát triển bền vững,
vì con người, tạo điều kiện cho mọi người, nhất là trẻ em, nhóm yếu thế, đồng
bào dân tộc thiểu số tiếp cận bình đẳng nguồn lực, cơ hội phát triển và hưởng
thụ công bằng các dịch vụ xã hội cơ bản. Quan tâm phát triển vùng đồng bào dân
tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa; tổ chức thực hiện hiệu quả chương trình, mục
tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền
núi giai đoạn 2021 - 2030. Triển khai đồng bộ các giải pháp giảm nghèo đa chiều,
bền vững, bao trùm, nhất là khu vực đồng bào dân tộc thiểu số. Thực hiện giảm
nghèo bằng các chính sách hỗ trợ hiệu quả, khơi dậy ý chí chủ động vươn lên tự
thoát nghèo; hạn chế bất bình đẳng xã hội. Đồng thời, nâng cao phúc lợi, an
sinh xã hội, bảo đảm nhu cầu tối thiểu về nhà ở, đi lại, giáo dục, y tế, việc
làm,… tiến tới bao phủ toàn dân với các chính sách phòng ngừa, giảm thiểu, khắc
phục rủi ro cho người dân, bảo đảm trợ giúp cho các nhóm đối tượng yếu thế.
Vấn đề thứ ba, bảo đảm quyền con người, coi con người là chủ thể, nguồn
lực chủ yếu và là mục tiêu phát triển trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của
Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Chủ động
tạo điều kiện tốt nhất, nâng cao khả năng sáng tạo và phát triển của con người
Việt Nam; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài, chăm lo lợi
ích chính đáng của người dân. Tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân
cách, lối sống, trí tuệ, năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh,
bảo đảm Nhân dân được sống trong hòa bình, ổn định, an sinh xã hội tốt nhất.
Vấn đề thứ tư, an ninh con người phải gắn với độc lập chủ quyền của quốc
gia, dân tộc, của chế độ xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi
ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa; bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội; giữ vững môi trường hòa bình, ổn
định để phát triển đất nước.
Như vậy, có thể thấy, an ninh con người là một trong những nội
dung lý luận mới được Đảng ta chỉ ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII. Trước những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế, những cơ hội và
thách thức đặt ra đối với sự an toàn của con người cũng như sự nghiệp đổi mới
đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, việc nhận thức đầy đủ tư duy lý luận của
Đảng về an ninh con người, nằm bắt và quán triệt vào thực tiễn cuộc sống là hết
sức cần thiết, cấp bách. Tuy nhiên, đây là vấn đề rất phức tạp, cần có những
chủ trương, biện pháp có tính chất vĩ mô, lâu dài, cần thiết phải huy động được
sức mạnh tổng hợp của cả yếu tố nội lực và yếu tố ngoại lực. Những phương hướng
mà Đảng ta chỉ ra trong Đại hội phải được cụ thể hoá thành những cách làm, bước
đi phù hợp với tình hình thực tế nhằm hướng tới mục tiêu cao nhất là bảo vệ con
người, đưa đất nước ngày một phát triển bền vững./.
DHH-NNTV
0 nhận xét:
Đăng nhận xét