Ngày
7/11/1917, Cách mạng Tháng Mười Nga do V.I.Lênin và Đảng Bôn-sê-vích lãnh đạo
đã giành thắng lợi, lập nên nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Từ
chỗ chỉ là ước mơ cao đẹp của loài người, sau Cách mạng Tháng Mười Nga, chủ
nghĩa xã hội (CNXH) đã trở thành hiện thực và có sức mạnh vô cùng to lớn, mở đường cho các
dân tộc bị áp bức vùng lên đấu tranh giành độc lập, tự do.
Cách mạng Tháng
Mười Nga nổ ra đã đáp ứng đầy đủ nhất những yêu cầu cấp thiết của lịch sử là
xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa để xây dựng một chế độ xã hội mới - chế độ xã hội
cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là CNXH. Để có được thắng lợi vang dội
đó, những người Bôn-sê-vích Nga dưới sự lãnh đạo của V.I.Lênin đã chuẩn
bị về mọi mặt như chính trị, tư tưởng, tổ chức, quân sự... Dưới ánh sáng của “Luận
cương tháng Tư” và sự chỉ đạo của V.I.Lênin, những người Bôn-sê-vích xác định
nhiệm vụ cấp bách và quan trọng nhất cho toàn Đảng là phải lôi cuốn đông đảo
giai cấp công nhân và nhân dân lao động về phía cách mạng; thành lập đội quân
chính trị đông đảo đủ sức mạnh đánh bại lực lượng phản cách mạng; thành lập lực
lượng vũ trang cách mạng làm chỗ dựa vững chắc cho cuộc đấu tranh chính trị và
chủ động đối phó với sự thay đổi của tình hình.
Sau Cách mạng
Tháng Mười, V.I.Lênin và Đảng Bôn-sê-vích Nga đã tập trung củng cố chính quyền
Xô-viết, xây dựng chế độ xã hội mới, đem lại cuộc sống tốt đẹp cho quần chúng
nhân dân. “Sắc lệnh hòa bình” và “Sắc lệnh ruộng đất” được
ban hành ngay sau khi cách mạng thành công đáp ứng được ý nguyện của quần chúng
nhân dân lao động Nga về một cuộc sống hòa bình, tự do và hạnh phúc. Sự thống
nhất về mặt lợi ích của giai cấp vô sản với nhân dân lao động đã hình thành và
phát triển một nguyên tắc đạo đức mới, đó là chủ nghĩa tập thể.
Trong hơn 70
năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đã đạt được
sự phát triển mạnh mẽ về tiềm lực kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất của CNXH trên
quy mô lớn với trình độ hiện đại, bảo đảm ngày càng tốt hơn đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân. Với sự lớn mạnh toàn diện, CNXH có ảnh hưởng
sâu sắc trong đời sống chính trị thế giới, đóng vai trò quan trọng đối với sự sụp
đổ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc
lập dân tộc và thời đại quá độ lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới.
Chính CNXH và cuộc đấu tranh rộng lớn, mạnh mẽ của nhân dân lao động
đã là động lực to lớn buộc các thế lực thực dân, đế quốc phải thừa nhận quyền độc
lập, tự do của các dân tộc thuộc địa; chính quyền các nước tư bản có những cải
cách xã hội để cải thiện đời sống của người lao động… Từ sau Cách mạng Tháng Mười,
Liên Xô đã giành được những thành tựu to lớn về nhiều mặt, nhất là đã huy động
được lực lượng vật chất và tinh thần đánh thắng liên minh các thế lực đế quốc
trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, các thế lực phát xít tàn bạo trong Chiến
tranh thế giới thứ hai, hình thành hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, góp phần
quan trọng vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội.
Cách mạng
Tháng Mười để lại nhiều bài học quý giá, trong đó quan trọng nhất là bài học về
công tác xây dựng Đảng. Thực tế lịch sử cho thấy, V.I.Lênin và Đảng
Bôn-sê-vích Nga đã chủ động chuẩn bị mọi mặt cho thắng lợi của Cách mạng Tháng
Mười. Trước sự biến động của tình hình cách mạng, cùng với việc đề ra chiến lược,
sách lược cụ thể, Đảng Bôn-sê-vích Nga đã sáng suốt khi xác định rõ, cách mạng
Nga phải chuyển từ cách mạng dân chủ tư sản sang cách mạng xã hội chủ nghĩa mà
nhiệm vụ trọng tâm là lật đổ chính quyền lâm thời tư sản, bảo vệ các Xô viết đại
diện. Đồng thời, công tác vận động, tập hợp quần chúng cũng được những người
Bôn-sê-vích Nga chú trọng gắn với việc đấu tranh vạch trần bộ mặt cải lương, phản
động của giai cấp tư sản và chính quyền lâm thời tư sản. Với hàng loạt khẩu hiệu
cách mạng, nhất là khẩu hiệu “Chính quyền về tay các Xô viết”, Đảng Bôn-sê-vích
Nga đã thành công trong việc tập hợp và phát huy sức mạnh của các lực lượng
cách mạng như công nhân, nông dân, các dân tộc bị áp bức cùng kiên quyết đấu
tranh lật đổ chính quyền lâm thời tư sản.
Từ sau Cách mạng
Tháng Mười, V.I.Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh, để xứng đáng với tư cách là
một đảng cách mạng chân chính, các đảng cộng sản phải luôn đề phòng và kiên quyết
đấu tranh ngăn chặn mọi biểu hiện tiêu cực trong nội bộ đảng như: suy thoái về
tư tưởng chính trị, đặc quyền, đặc lợi, xa dân, quan liêu, tham nhũng, lãng
phí, cơ hội chủ nghĩa; phải nghiêm túc thực hiện tự phê bình và phê bình; phải
thường xuyên tự điều chỉnh sao cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Đây là
những chỉ dẫn hết sức quý báu của V.I.Lênin được rút ra từ thành công của Cách
mạng Tháng Mười.
Về ý nghĩa của
Cách mạng Tháng Mười đối với phong trào cách mạng trên thế giới nói chung và Việt
Nam nói riêng, ngay từ những năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: “Trong thế giới
bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công và thành công đến nơi, nghĩa là
dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật không phải tự do, bình
đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang ở bên An Nam..”. Vì vậy,
trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đặc biệt
coi trọng việc vận dụng sáng tạo những bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng
Mười, nhất là bài học về công tác xây dựng Đảng. Người cho rằng: “Cách mệnh
Nga dạy chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì dân chúng (công nông) làm gốc,
phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất”; chỉ rõ việc
cần kíp trước hết mà cách mạng đòi hỏi là “phải có Đảng cách mệnh”, “Đảng có vững
thì cách mạng mới thành công… Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt”,
“Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc
chắn nhất, cách mệnh nhất là Chủ nghĩa Lênin”.
Dù đã hơn một
thế kỷ trôi qua với muôn vàn biến động và những thay đổi liên quan đến “địa-
chính trị” thế giới, nhưng không ai có thể phủ nhận được ý nghĩa to lớn của Cách
mạng Tháng Mười Nga đối với phong trào cách mạng thế giới lúc bấy giờ. Đối với
Việt Nam, Cách mạng Tháng Mười chính là ánh sáng soi đường cho nhân dân ta đi đến
một cuộc cách mạng vĩ đại trong lịch sử dân tộc - cách mạng vô sản do giai cấp
công nhân và nhân dân lao động khởi xướng để xây dựng đất nước theo con đường
xã hội chủ nghĩa. Cho đến nay, trải qua chặng đường hơn 90 năm, Đảng Cộng sản
Việt Nam vẫn luôn kiên trì, kiên định con đường này và luôn quán triệt, vận dụng
bài học thành công từ Cách mạng Tháng Mười đối với công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng hiện nay.
Kế thừa những
giá trị quý báu của Cách mạng Tháng Mười Nga về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
sự nghiệp cách mạng, từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn coi trọng nhiệm vụ
xây dựng Đảng. Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng chủ trương lấy phát triển
kinh tế làm nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng làm nhiệm vụ then chốt. Ngoài ra,
Đảng luôn quán triệt sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng Đảng và vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của cách mạng
Việt Nam, đề ra đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn, lãnh đạo nhân dân ta
đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Từ thực tiễn
Cách mạng Tháng Mười chứng minh rằng, bất cứ một chế độ nào đi ngược lại lợi
ích chân chính của dân tộc, của nhân dân, cản trở tiến bộ xã hội tất yếu bị đào
thải, thay thế bởi một chế độ xã hội khác tốt đẹp hơn. Ngoài ra, để một tổ chức
Đảng có thể tập hợp được sức mạnh của quần chúng nhân dân, tất yếu phải vì những
mục tiêu cao đẹp, nhân văn. Nếu khi tiến hành Cách mạng Tháng Mười, Đảng Bôn-sê-vích
Nga luôn nêu cao khẩu hiệu “Chính quyền về tay các Xô viết” thì ngày nay,
Đảng Cộng sản Việt Nam khi lãnh đạo nhân dân ta tiến hành công cuộc đổi mới và
phát triển đất nước luôn hướng đến mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”. Những mục tiêu cao đẹp đó chính là ngọn cờ tập
hợp lực lượng để Đảng ta kế thừa những bài học quý giá của Đảng Bôn-sê-vích
Nga trong việc phát huy sức mạnh của đông đảo quần chúng nhân dân tham gia cách
mạng.
Nếu chủ nghĩa
Mác - Lênin đã soi đường cho cách mạng Nga thành công từ năm 1917 thì chủ nghĩa
Mác - Lênin cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh đã dẫn đường cho cách mạng Việt
Nam giành được những thắng lợi quan trọng và vĩ đại trong
suốt hơn 90 năm qua. Đảng ta luôn tự hào mà khẳng định rằng: “Tư tưởng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam, là tài sản tinh thần
vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp
cách mạng của Đảng và nhân dân ta”.
Ngay sau Cách
Mạng tháng Mười thành công, Đảng Bôn-sê-vích Nga đã đứng trước sự chống
phá quyết liệt của các phe phái đối lập. Do đó, một vấn đề đặt ra liên quan đến
sự tồn vong của Đảng là Đảng vừa phải bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa
phải đấu tranh chống những phe phái phi mácxít như chủ nghĩa Ma-khơ, chủ nghĩa
dân túy, chủ nghĩa cơ hội… để bảo vệ nền tảng tư tưởng của mình. Tinh thần đó
hiện đang được Đảng ta kế thừa một cách sâu sắc.
Trong quá
trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng luôn nhận thức
rõ và xác định: một mặt cần phải bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; một mặt phải đấu tranh chống lại các
quan điểm sai trái của các thế lực phản động, cơ hội chính trị đang ra sức tấn
công nhằm phủ nhận, xuyên tạc nền tảng tư tưởng của Đảng.
Không chỉ kế
thừa bài học xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị; thành công của Cách mạng
Tháng Mười còn để lại bài học quý giá cho Đảng ta trong xây dựng, chỉnh
đốn Đảng về tổ chức, đạo đức và cán bộ. Hơn một thế kỷ trước - ngay từ
sau thành công của Cách mạng Tháng Mười, V.I.Lênin đã nhận rõ một “căn
bệnh tất yếu” của những người chiến thắng - đó là bệnh kiêu ngạo của người
cộng sản. Trong bài viết “Chính sách kinh tế mới và những
nhiệm vụ của các ban giáo dục chính trị” để báo cáo tại Đại hội II toàn
Nga các ban giáo dục chính trị ngày 17/10/1921, V.I.Lênin đã vạch ra ba thứ kẻ
thù chính - kẻ thù “nội xâm” mà những người cộng sản Nga phải kiên quyết đấu
tranh tiêu diệt chúng. Một trong ba thứ kẻ thù ấy - kẻ thù mà V.I.Lênin nói đến
đầu tiên - chính là “tính kiêu ngạo cộng sản chủ nghĩa” khi “tưởng rằng chỉ bằng
những pháp lệnh cộng sản là có thể giải quyết được tất cả mọi nhiệm vụ của
mình”. V.I.Lênin cảnh báo rằng “Không có gì nguy hại và tai hại đối với chủ
nghĩa cộng sản bằng thói lên mặt ta đây là cộng sản”. Theo V.I.Lênin, bệnh này
tất yếu dẫn đến sự chủ quan, buông lỏng tổ chức, suy thoái đạo đức của cán bộ,
đảng viên vì “nếu một người cộng sản cứ tưởng rằng ta biết tất cả rồi… thì
chính cái tâm trạng ngự trị trong chúng ta đó làm cho chúng ta thất bại”.
Kế thừa bài học
đó, trong thời gian qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn đặc biệt coi
trọng công tác xây dựng Đảng về tổ chức, đạo đức và cán bộ. Điều
đó xuất phát từ “tình trạng tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng
với biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, gây bức xúc trong dư luận, ảnh hưởng
đến niềm tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước. Tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị
đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn biến phức tạp hơn; một số rất ít cán bộ, đảng
viên bị phần tử xấu lợi dụng, lôi kéo, kích động, xúi giục, mua chuộc đã có tư
tưởng, việc làm chống đối Đảng và Nhà nước”; “Đã xuất hiện những việc làm và
phát ngôn vô nguyên tắc, trái với Cương lĩnh, đường lối, Điều lệ Đảng ở một số
cán bộ, đảng viên”. Đảng ta đã thừa nhận tình trạng suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên là một trong những hạn chế rất nghiêm trọng làm suy giảm niềm tin của
nhân dân với Đảng và là một nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và của chế độ:
“Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có
thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại
lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc”. Thời gian qua, Đảng
ta đã ban hành nhiều nghị quyết quan trọng về công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, như: Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về “Một số vấn đề
cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” (năm 2012), Nghị quyết Trung ương 4
khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ” (năm 2016); trước tình trạng suy thoái của một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, Đảng cũng đã ban hành một số Quy
định về nêu gương như: Quy định 101-QĐ/TW về “Trách nhiệm nêu
gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp” (năm
2012), Quy định số 55-QĐ/TW về “Một số việc cần làm ngay để tăng cường
vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên” (năm 2016), Quy định số 08-QĐi/TW
về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ
Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương” (năm
2018)… Những nghị quyết, quy định đó là sự khẳng định, thể hiện ý chí quyết
tâm, kiên trì của Đảng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn tổ chức, đội
ngũ của Đảng.
Kỷ niệm
105 Cách mạng tháng Mười Nga là dịp để chúng ta cùng nhìn nhận lại ý nghĩa
lịch sử to lớn mà cuộc cách mạng này đã mang lại cho phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc, giai cấp, giải phóng con người trên toàn thế giới; đồng
thời cùng soi chiếu bài học từ thành công đó đối với công tác xây dựng Đảng ở
Việt Nam hiện nay./.
PHT-BC
0 nhận xét:
Đăng nhận xét