Những
năm qua, Việt Nam đã từng bước kiểm soát được dịch HIV trên cả ba tiêu chí, đó
là: giảm số người nhiễm mới HIV được phát hiện, giảm số người chuyển sang giai
đoạn AIDS và giảm số người tử vong liên quan đến AIDS.
Đây
là kết quả từ cam kết chính trị mạnh mẽ, cũng như sự vào cuộc của cả hệ thống
chính trị ở Việt Nam trong công tác phòng, chống HIV/AIDS, nhất là trong bối cảnh
tài trợ nước ngoài - nguồn lực chính trong phòng, chống HIV/AIDS tại Việt Nam
nhiều năm qua đã giảm mạnh và từ năm 2018, gần như toàn bộ nguồn thuốc viện trợ
quốc tế cho chương trình này đã kết thúc.
Có
thể nói, ngoài sự quyết tâm, thì tài chính luôn được xem là nguồn lực đặc biệt
quan trọng trong công tác phòng, chống HIV/AIDS. Cùng với nhu cầu chi cho tuyên
truyền, dự phòng lây nhiễm thì chi phí cho khám và điều trị… cũng rất cao. Theo
tính toán, nếu không tính tới các chi phí liên quan như khám bệnh, xét nghiệm định
kỳ, các dịch vụ đặc thù và điều trị nhiễm trùng cơ hội…, mỗi người nhiễm HIV sử
dụng thuốc ARV theo phác đồ bậc 1 mất hơn bốn triệu đồng/năm, còn theo phác đồ
bậc 2 thì chi phí cao gấp 7-8 lần, trong khi đây là loại thuốc phải sử dụng
liên tục, suốt đời. Chính vì vậy, khi các nguồn lực quốc tế bị cắt giảm, Việt
Nam đã sớm xây dựng kế hoạch tăng tính tự chủ của quốc gia trong bảo đảm nguồn
tài chính cho phòng, chống HIV/AIDS, trong đó đặc biệt chú trọng tới nguồn lực
từ Quỹ Bảo hiểm y tế. Phải khẳng định, đây là một lựa chọn đúng đắn, hoàn toàn
phù hợp những khuyến cáo của các tổ chức quốc tế. Trong đó, Tuyên bố chính trị
của Cuộc họp cấp cao Đại hội đồng Liên hợp quốc về bao phủ chăm sóc sức khỏe
toàn dân (UHC) cuối năm 2019 đã nhấn mạnh vai trò của bảo hiểm y tế trong việc
bảo đảm tính phổ cập, không phân biệt đối xử, chất lượng, khả năng tiếp cận… với
toàn bộ các dịch vụ HIV.
Tuy
nhiên, không phải tới thời điểm này, mà trước đó ba năm, Việt Nam đã có chủ
trương sử dụng Quỹ Bảo hiểm y tế để mua thuốc ARV (thuốc kháng vi-rút điều trị
nhiễm HIV); huy động ngân sách cấp tỉnh để hỗ trợ người nhiễm HIV đóng phí bảo
hiểm y tế và các khoản đồng chi trả. Đây là cơ sở quan trọng để tỷ lệ bao phủ bảo
hiểm y tế cho bệnh nhân dương tính với HIV gia tăng nhanh chóng, từ 50% năm
2016 lên 82% năm 2017 và hiện đạt khoảng 95%.
Với
tấm thẻ bảo hiểm y tế, từ việc được Quỹ Bảo hiểm y tế bảo đảm kinh phí khám bệnh,
xét nghiệm, điều trị nhiễm trùng cơ hội tại các cơ sở điều trị HIV đủ điều kiện,
từ đầu năm 2019, người nhiễm HIV đã bắt đầu được chi trả chi phí thuốc ARV. Đến
nay, bình quân mỗi năm, Quỹ Bảo hiểm y tế đã chi trả khoảng 400 tỷ đồng, trong
đó khoảng 200 tỷ đồng cho dịch vụ khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế và 200 tỷ đồng
cho thuốc ARV, đáp ứng tới 70% tổng nhu cầu thuốc ARV thiết yếu tại Việt Nam.
Theo
ông Marc Knapper, Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, đây là một thành tích đáng ghi nhận.
“Việc đưa các dịch vụ điều trị HIV vào nền tảng bảo hiểm y tế là một thí dụ điển
hình cho thấy tiến bộ của Việt Nam trên hành trình hướng tới duy trì bền vững ứng
phó quốc gia với HIV”.
Mặc
dù vậy, thời gian tới, vấn đề tài chính trong phòng, chống HIV/AIDS của Việt
Nam vẫn phải đối mặt với các thách thức do các nguồn lực trong nước hiện mới
chiếm hơn 51%. Thực tế đó đòi hỏi vai trò của Quỹ Bảo hiểm y tế cần phải được
phát huy cao hơn nữa./.
NXC-H1
0 nhận xét:
Đăng nhận xét