“Văn hóa dân tộc Việt Nam sẽ do cách mạng dân chủ giải phóng thắng lợi mà được cởi mở xiềng xích và sẽ đuổi kịp văn hóa tân dân chủ thế giới”... Đó là nội dung được ghi trong "Đề cương về văn hóa Việt Nam" (gọi tắt là Đề cương) năm 1943. Sau 80 năm đọc lại Đề cương, nhiều nội dung vẫn còn nguyên giá trị.
Chẵn
80 năm về trước, “Đề cương về văn hóa Việt Nam” của Đảng ta ra đời trong một
tình thế lịch sử cực kỳ căng thẳng: Nhật vào Đông Dương, chế độ phát xít được
thiết lập, cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai đang đi gần tới kết thúc và đất nước
bước vào thời kỳ tiền khởi nghĩa. Sự bóc lột tàn bạo của chính quyền Pháp-Nhật
và sự kiệt quệ về kinh tế dẫn đến cái chết của hai triệu người vào tháng
3-1945.
Đảng
lãnh đạo nhằm mục tiêu độc lập dân tộc, tự do và dân chủ cho nhân dân, đến lúc
này vẫn là lực lượng duy nhất có sứ mệnh đưa cách mạng đến thắng lợi cuối cùng.
Cùng với hoạt động chính trị và quân sự, Đảng ta cũng rất coi trọng mặt trận
văn hóa. Mục 3, phần I của Đề cương ghi: “Mặt trận văn hóa là một trong 3 mặt
trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động”. Đồng thời,
khi nhằm mục tiêu số 1 là cứu dân tộc, Đảng cũng cho thấy đó là con đường cứu nền
văn hóa dân tộc: “Văn hóa dân tộc Việt Nam sẽ do cách mạng dân chủ giải phóng
thắng lợi mà được cởi mở xiềng xích và sẽ đuổi kịp văn hóa tân dân chủ thế giới”.
"Đề
cương về văn hóa Việt Nam" ra đời trong tình thế lịch sử sôi sục ấy nhằm mục
đích trực tiếp và cao cả nhất là giành độc lập, tự do cho dân tộc; và với một
quan niệm rất rõ là có cứu được dân tộc thì mới cứu được văn hóa dân tộc. Đó
chính là nội dung quan trọng, cơ bản và đầu tiên của Đề cương. Nó được ghi ở vị
trí số 1 trong 3 nguyên tắc: Dân tộc hóa, đại chúng hóa, khoa học hóa.
Trong
tình thế khốn cùng của nhân dân vào đầu thập niên 1940, các tầng lớp trí thức của
dân tộc cũng đều bị dồn đến thế cùng. Qua phương châm dân tộc hóa và với sự
thành lập Hội Văn hóa cứu quốc, gần như đại bộ phận đội ngũ trí thức khoa học
và nghệ thuật của dân tộc đều hướng về cách mạng và tham gia cách mạng.
"Đề
cương về văn hóa Việt Nam" ra đời khi những nền tảng cho sự canh tân văn
hóa, văn học dân tộc đã được thực hiện, với vai trò của các nhà Nho-chí sĩ đầu
thế kỷ, nhưng những kết quả thu được vẫn còn giới hạn ở các tầng trên, mặt
trên, chưa động tới được các bề sâu. Qua phương châm đại chúng hóa, Đề cương tiếp
tục sứ mệnh đào sâu xuống các nền tảng của đại chúng, nhằm đưa văn hóa vào quần
chúng và đưa quần chúng vươn dần lên, hướng tới những mục tiêu từ thấp lên cao
của tiếp thụ và sáng tạo văn hóa...
Sau
80 năm, với bao biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ
20, Việt Nam từ một nước nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã
vùng dậy làm một cuộc Cách mạng Tháng Tám vĩ đại, rồi tiếp tục tiến hành các cuộc
kháng chiến để đi tới thống nhất đất nước và phát triển theo định hướng mới của
chủ nghĩa xã hội, đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại. Bây giờ,
nhìn lại "Đề cương về văn hóa Việt Nam" năm 1943, tất nhiên chúng ta
sẽ thấy một số mặt bất cập của Đề cương trong nhìn nhận, đánh giá lịch sử văn
hóa dân tộc và các trào lưu văn hóa hiện đại thế giới... Tuy nhiên, dù tất cả bất
cập có tính lịch sử nhưng sau quãng lùi 80 năm đến nay vẫn có thể khẳng định
giá trị của Đề cương. Đó là, ngay từ năm 1943, khi chưa nắm được chính quyền, Đảng
ta đã có sự quan tâm đến mặt trận văn hóa. Và khi đặt mối quan tâm vào văn hóa,
Đảng cũng đã sơ bộ nắm được phép biện chứng trong tác động trở lại của văn hóa
đối với đời sống kinh tế, chính trị. Ngay trong phần mở đầu, Đề cương ghi:
"Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa
nữa. Có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc
tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả”.
Như
vậy là vai trò của văn hóa, ở mặt tích cực của nó đã được khẳng định trong
tương lai-vì sự cần thiết đến khẩn thiết của nó đối với một cuộc cách mạng do Đảng
Cộng sản lãnh đạo; và nội dung đó đã được nêu trong Đề cương. Một bản Đề cương ở
thời điểm năm 1943 đã có thể, ra đời sau Ngày thành lập Đảng 13 năm; đứng trước
sứ mệnh lịch sử chuẩn bị cho một cuộc cách mạng sẽ diễn ra chỉ hai năm sau đó.
Nhưng
văn hóa là một khái niệm có nội hàm rộng. Như nội dung Đề cương viết: “Văn hóa
bao gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật”. Bây giờ ta có hàng trăm định nghĩa
về văn hóa. Ở thời điểm năm 1943, hiểu văn hóa ở 3 phương diện tư tưởng, học
thuật, nghệ thuật tất nhiên là chưa đủ chiều rộng; nhưng lại có được một đường
biên cụ thể cho sự hình dung. Đó là sự bao quát phạm vi hoạt động của người trí
thức, của giới trí thức trên hai lĩnh vực cơ bản là khoa học và nghệ thuật.
Dẫu
quan niệm về văn hóa là rộng hoặc hẹp thì điểm nhấn mạnh và tư tưởng xuyên suốt
Đề cương vẫn là ở “3 nguyên tắc vận động của cuộc vận động văn hóa mới”. Đó là:
Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa, khiến cho văn hóa Việt
Nam phát triển độc lập); đại chúng hóa (chống mọi chủ trương hành động làm cho
văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng); khoa học hóa
(chống lại những cái gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ)”. Dân tộc
hóa là nguyên tắc được đặt ở vị trí số 1. Với nguyên tắc này, sự tiếp nhận của
quần chúng, trước hết là các tầng lớp trí thức sẽ có ý nghĩa như một định hướng
cho họ ở cả hai tư cách: Tư cách công dân và tư cách trí thức-nhà khoa học-nghệ
sĩ, trước một thời cuộc đang chuyển vào đêm trước cách mạng. Ở cả hai tư cách,
người trí thức chỉ có thể chọn một con đường-con đường hướng về cách mạng và
tham gia cách mạng để cứu nước, trong đó có bản thân và nghề nghiệp của mình. Đại
chúng hóa là nguyên tắc có tác động sâu rộng đối với đời sống văn hóa, tinh thần
nói chung và văn học-nghệ thuật nói riêng... Chính nhờ những kết quả của nguyên
tắc đại chúng hóa mà ngay sau năm 1945, nền văn học-nghệ thuật dân tộc đã tạo
được một chuyển đổi nhanh chóng để sớm có một gương mặt mới, một giọng điệu mới,
thậm chí đến cả một thi pháp mới trong sáng tạo và tiếp nhận thơ, văn, nhạc, họa...
Nguyên tắc khoa học hóa là kết quả của sự vận dụng Chủ nghĩa Mác để phân tích lịch
sử-văn hóa dân tộc cùng thực trạng văn hóa hiện thời. Từ đó đề ra phương hướng
phát triển văn hóa “tân dân chủ”...
Có
thể nói, 3 nguyên tắc được nêu trong Đề cương năm 1943-cách đây tròn 80 năm-rõ
ràng là sự trả lời đúng đắn và kịp thời cho những nhu cầu cấp thiết nổi lên
trong một thời điểm trọng đại của lịch sử. Do khả năng đón đợi, tập hợp và đưa
tất cả đội ngũ trí thức đến với cách mạng, Đề cương đã góp phần quan trọng vào
thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Cùng
với Đề cương là sự ra đời Hội Văn hóa cứu quốc-nơi tập hợp đội ngũ trí thức vào
một tổ chức cách mạng nằm trong Mặt trận Việt Minh do Đảng lãnh đạo. Từ Hội Văn
hóa cứu quốc diễn ra các đại hội văn hóa cứu quốc và hội nghị văn hóa toàn quốc
ngay sau ngày cách mạng thành công. Điều đặc biệt là mối quan tâm của Chủ tịch
Hồ Chí Minh đối với vai trò và vị trí của mặt trận văn hóa trong sự nghiệp giải
phóng, xây dựng đất nước, qua ý kiến phát biểu của Người trong Hội nghị văn hóa
toàn quốc lần thứ nhất, họp tại Hà Nội chỉ trong ngày 24-11-1946: “Văn hóa phải
soi đường cho quốc dân đi...”. Từ thời điểm này, chỉ hơn 3 tuần sau là sự kiện
Toàn quốc kháng chiến (19-12-1946) bùng nổ cùng với lời kêu gọi vang dội núi
sông của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
NTC - H4
0 nhận xét:
Đăng nhận xét