Trong các lãnh tụ cách mạng, Hồ Chí Minh là người nổi bật, điển hình nhất về sự quan tâm tới đạo đức cách mạng: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Đó là các chuẩn mực đạo đức, các giá trị trong lẽ sống, lối sống của mỗi con người tự nguyện phấn đấu, hy sinh cho lý tưởng cộng sản của Đảng, đấu tranh quên mình trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì độc lập của Tổ quốc, tự do cho dân tộc, hạnh phúc của nhân dân.
1.
Tìm đường cứu nước cứu dân, nặng lòng yêu nước thương dân; lăn lộn trong thực
tiễn lao động, học tập và tranh đấu; vượt qua mọi gian lao khó nhọc, thử thách
hiểm nghèo nơi chốn lao tù với ý chí và niềm tin mãnh liệt; bằng nghị lực phi
thường và lòng dũng cảm vô song, Nguyễn Tất Thành-Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh đã
thấy đường, chọn đường và trở thành người dẫn đường cách mạng cho dân tộc đi đến
mục tiêu: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đó là “đường cách mệnh”,
“phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”. Con đường ấy không chỉ
giải phóng mà còn phát triển, đưa dân tộc ta từ nô lệ tới tự do, từ mất nước tới
độc lập, vượt qua đói nghèo, lạc hậu, đi tới bến bờ ấm no, hạnh phúc.
Một
sự nghiệp vĩ đại như vậy, muốn thành công, làm cách mạng đến nơi, tức là triệt
để, những người cách mạng không chỉ cần giác ngộ lý tưởng, có lý luận khoa học
tiên phong dẫn đường, làm kim chỉ nam cho hành động mà còn cần có đạo đức, trước
hết là đạo đức trong sáng, dấn thân, hy sinh vì nước, vì dân.
Viết
tác phẩm lý luận “Đường kách mệnh”, Nguyễn Ái Quốc lại trước hết nói về “Tư
cách một người cách mệnh” là vì vậy. Người gắn chặt tư tưởng lý luận với đạo đức;
nhấn mạnh phẩm chất đầu tiên của người cách mạng là “cần kiệm”. Đó là cơ sở của
“Liêm”, của “Chính”. Hai yêu cầu nổi bật trong tư cách của người cách mệnh là
“giữ chủ nghĩa cho vững” và “ít lòng tham muốn về vật chất”. “Tư cách”, trong
tư tưởng của Người, đó là đạo đức và rộng hơn là nhân cách. Rõ ràng, chủ kiến đạo
đức của Người hình thành từ rất sớm và trong hành trình tư tưởng, trong cuộc đời
và sự nghiệp của Người, chủ kiến này ngày càng nổi bật, nhất quán từ tư tưởng đến
hành động, nhất quán giữa lời nói với việc làm...
Tư
tưởng Hồ Chí Minh, trong đó nổi bật là tư tưởng đạo đức; hoạt động thực tiễn Hồ
Chí Minh, trong đó nổi bật là thực hành lý luận, thực hành đạo đức, nêu gương đạo
đức, suốt đời ở ngoài vòng danh lợi, suốt đời không màng danh lợi đã làm cho di
sản Hồ Chí Minh-thời đại Hồ Chí Minh mà Người để lại cho muôn đời sau thật cao
thượng và vĩ đại.
Không
ai nói nhiều, viết nhiều về đạo đức và thực hành đạo đức cách mạng như Hồ Chí
Minh. Cũng không ai nói về chữ "Liêm" của cán bộ, đảng viên-từ đảng
viên thường đến cán bộ có chức có quyền-một cách cặn kẽ và sâu sắc như Hồ Chí
Minh. Có thể kể đến các tác phẩm như: “Đường kách mệnh” (năm 1927); “Đời sống mới”
(tháng 3-1947); “Sửa đổi lối làm việc” (tháng 10-1947); Lời kêu gọi Thi đua ái
quốc (tháng 6-1948); “Cần kiệm liêm chính” (tháng 6-1949); bài báo “Dân vận”
tháng 10-1949. Năm 1958, Người viết tác phẩm "Đạo đức cách mạng" về
chống chủ nghĩa cá nhân. Nhân dịp Đảng ta 39 tuổi, ngày 3-2-1969, Người viết
“Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Trong bản "Di
chúc" thiêng liêng, Người chỉ rõ: "Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi
đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm
liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch". Đảng cầm
quyền phải thật trong sạch để thật vững mạnh; cán bộ, đảng viên phải thật sự cần,
kiệm, liêm, chính để nêu gương cho quần chúng, xứng đáng là người lãnh đạo, người
đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Người
còn nói về đạo làm tướng, về người lãnh đạo phải ra sức đề cao trách nhiệm, trước
hết là trách nhiệm đạo đức, thực hành đức Liêm, đức Chính.
2.
Những chỉ dẫn của Người về chữ "Liêm" của cán bộ, thực hành chữ
"Liêm" để gây đời sống mới, trước hết là cán bộ, đảng viên trong Đảng,
công chức, nhân viên nhà nước để làm người trong sạch, để xứng đáng với sự tin
cậy của dân, trải qua mấy thập kỷ vẫn còn nguyên giá trị. Vậy Liêm là thế nào?
Người
nói rõ chữ "Liêm" trong tác phẩm “Đời sống mới”. Thực hành chữ
"Liêm" là việc mỗi công chức, viên chức-những đầy tớ của dân-phải thường
xuyên chú trọng, phải tự mình đề phòng và vượt qua nguy cơ thoái hóa, hư hỏng.
Người cảnh tỉnh: “Những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền
hành. Nếu không giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì dễ trở nên hủ bại, biến
thành sâu mọt của dân”.
Khởi
đầu của Liêm là Cần và Kiệm. “Phải nhớ rằng: Dân đã lấy tiền mồ hôi nước mắt để
trả lương cho ta trong những thì giờ đó. Ai lười biếng tức là lừa gạt dân”. Lười
biếng, vô trách nhiệm đối lập với cần cù, chăm chỉ, tận tụy, chẳng những là kém
đạo đức mà còn là bất liêm, là phụ lòng tin của Chính phủ, của nhân dân.
Hồ
Chí Minh chỉ rõ, đồng thời cảnh báo nguy cơ rơi vào bất liêm: “Những người ở
các công sở, từ làng cho đến Chính phủ trung ương, đều dễ tìm dịp phát tài, hoặc
xoay tiền của Chính phủ, hoặc khoét đục nhân dân. Đến khi lộ ra, bị phạt, thì mất
hết cả danh giá, mà của phi nghĩa đó cũng không được hưởng. Vì vậy, những người
trong công sở phải lấy chữ Liêm làm đầu”. Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh, có Cần,
có Kiệm mới có Liêm. Có Liêm mới có Chính. Có đủ cả cần, kiệm, liêm, chính mới
là người hoàn toàn. Thiếu một đức thì không thành người. Song ở đời thì “nhân
vô thập toàn”. Ai cũng có cái hay, cái dở, cái tốt và cái xấu. Vậy muốn trở nên
hoàn toàn thì phải rèn đạo đức suốt đời, phải suốt đời chống chủ nghĩa cá nhân
là giặc ở trong lòng.
Giải
thích cặn kẽ chữ "Liêm", trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Người
nêu lên các yêu cầu: Không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung sướng,
không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ
hóa, nghĩa là không thoái hóa, biến chất, không bị tha hóa.
Người
xác định, cán bộ, đảng viên, nhất là đối với thế hệ trẻ, thanh niên phải xây dựng
lối sống chân chính, lựa chọn giá trị sống cho đúng: “Chỉ có một thứ ham là ham
học, ham làm, ham tiến bộ”.
Chữ
"Liêm" không chỉ hiện diện trong “Cần, kiệm, liêm, chính” mà còn
trong “Nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm”, đủ thấy đức Liêm cần thiết và quan trọng
như thế nào trong đạo làm người.
Đến
tác phẩm “Cần kiệm liêm chính”, Hồ Chí Minh giảng giải, phân tích thật sâu sắc
và hệ thống về chữ "Liêm", về đức liêm chính, liêm trung của người
cán bộ. Đáng lưu ý là ở chỗ, ai cũng cần rèn luyện để thành liêm và ai cũng đứng
trước nguy cơ rơi vào bất liêm, không chỉ cán bộ mà cả mỗi người dân, nếu không
chịu khó tự tu dưỡng, tự đấu tranh với chính mình. Người chỉ dẫn những lời thấm
thía:
Sau
khi làm rõ nghĩa LIÊM và BẤT LIÊM, Hồ Chí Minh đề ra giải pháp rất thiết thực
cho việc thực hành chữ "Liêm" và chống mọi hành vi bất liêm. “Cần có
tuyên truyền và kiểm soát, giáo dục và pháp luật, từ trên xuống, từ dưới lên
trên”. Người đặc biệt nhấn mạnh: “... Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương
tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”. Vì vậy, cán
bộ phải thực hành chữ LIÊM trước, để làm kiểu mẫu cho dân".
Người
còn nói đến trách nhiệm của dân trong việc giữ chữ "Liêm" cho cán bộ:
“Quan tham vì dân dại”. Nếu dân hiểu biết, không chịu đút lót, thì “quan” dù
không liêm, cũng phải hóa ra LIÊM. Vì vậy, dân phải biết quyền hạn của mình, phải
biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ thực hiện chữ LIÊM".
Hồ
Chí Minh đòi hỏi “pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ
kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”. Người thức tỉnh lương tâm, danh dự của
mỗi người, phải tự ý thức rằng “tham lam là một điều rất xấu hổ, kẻ tham lam là
có tội với nước, với dân”. Và Người tin rằng: “Cán bộ thi đua thực hành liêm
khiết, thì sẽ gây nên tính liêm khiết trong nhân dân. Một dân tộc biết cần, kiệm,
biết liêm, là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc
văn minh tiến bộ".
Những
chỉ dẫn trên của Người vừa mang ý nghĩa giáo dục, thức tỉnh, cảnh tỉnh, vừa
mang tính chất một thông điệp đạo đức từ trong Đảng, Nhà nước đến toàn xã hội,
mãi mãi còn giá trị.
NTC - H4
0 nhận xét:
Đăng nhận xét