Không phải chỉ những kẻ chống đối, cố tình khoét sâu vào điểm
yếu tham nhũng, mà vẫn còn cán bộ, đảng viên hoài nghi tính hiệu lực, hiệu quả
của công tác chống tham nhũng hiện nay. Hàng loạt câu hỏi đặt ra như: tại sao từ
hàng chục năm trước, Đảng ta đã nhận ra sự nguy hiểm, mức độ nghiêm trọng của
tham nhũng mà chưa có chuyển biến quan trọng nào, thậm chí tình trạng tham
nhũng tiếp tục nghiêm trọng hơn? Phải chăng vì trong Đảng có nể nang hay ràng
buộc phe phái khiến cho không thể chống được tham nhũng, hoặc vì cố bảo vệ uy
tín, sự đoàn kết mà ngại không chống tham nhũng triệt để trong từng vụ việc? phải
chăng vì quan chức Việt Nam: cần tham nhũng, muốn tham nhũng, dám tham nhũng và
không sợ khi tham nhũng?...
Điều này có thể khẳng định từ một số luận
điểm như sau: Tham nhũng là hiện tượng đã có từ xa xưa, trong mọi Nhà nước, mọi
chế độ chính trị và hiện nay có ở mọi nơi. Không phải vì một đảng mà nảy sinh
tham nhũng, cũng không phải chỉ có đa đảng mới có thể diệt trừ được tham nhũng.
Thực tiễn nhiều quốc gia trên thế giới chứng minh đa đảng vẫn
nảy sinh tham nhũng, vẫn có thể khó khăn đấu tranh, ngăn chặn tham nhũng. Bằng
chứng là nhiều nước đa đảng, thường
xuyên được xếp hàng đầu thế giới về chống tham nhũng thì cũng chưa nước nào đạt
được 90 trên 100 điểm tuyệt đối theo thang điểm của Tổ chức minh bạch quốc tế -
TI. Ví dụ Newdiland xếp thứ nhất đạt 89 điểm; Đan Mạch xếp thứ hai đạt 88 điểm;
Phần Lan thứ 3, Nauy thứ 4, Thụy Sĩ thứ 5 cùng 85 điểm, Thụy Điển thứ 6 với 84
điểm; Canada thứ 7 với 82 điểm, Luxembourg thứ 8 với 82 điểm, Hà Lan thứ 9 với
82 điểm, Anh thứ 10 cùng 82 điểm, Đức thứ 11 với 81 điểm. Như vậy là tham nhũng
vẫn hiện diện ở ngay những nước đa đảng được coi là dân chủ và trong sạch nhất.
Có kết luận cho rằng, càng dân chủ thì
càng ít tham nhũng. Điều này tuy đúng, nhưng cũng chỉ là tương đối. Bằng chứng
là Ấn Độ được coi là “ nền dân chủ lớn nhất thế giới” cũng chỉ đứng hàng 84/180
quốc gia với số điểm 40/100. Ngược lại, Cu Ba là quốc gia chỉ duy nhất một đảng,
được xếp vào nhóm "ít dân chủ", song năm 2017 được xếp thứ 62 với 47
điểm về chỉ số cảm nhận tham nhũng CPI, cao hơn Ấn độ và nhiều nước đa đảng ở cả
châu Âu và châu Mỹ. Tương tự như vậy, Trung Quốc được xếp thứ 77/180 quốc gia với
số điểm 41/100 về tham nhũng.
Việt Nam là nước một Đảng lãnh đạo, năm 2016 và 2017 đạt
35/100 điểm, được xếp thứ 107/180, cao hơn nhiều quốc gia đa đảng và có nền
kinh tế thị trường sớm và lớn hơn Việt Nam. Trong bảng xếp hạng tham nhũng toàn
cầu của TI cho thấy, rất nhiều quốc gia đa đảng nhưng vẫn thuộc nhóm có tham
nhũng nhiều nhất. Như vậy, yếu tố đảng phái chỉ là một nhân tố góp phần vào nảy
sinh tham nhũng và chống tham nhũng.
Vậy đâu là những nhân tố quan trọng nhất tạo điều kiện nảy
sinh và phát triển tham nhũng? Theo tổng kết của các nhà nghiên cứu và các tổ
chức chống tham nhũng, đó là:
- Một hệ thống chính trị và hành chính thiếu cơ chế kiểm
soát quyền lực, tạo điều kiện cho người có chức vụ, quyền hạn có thể thu lợi bất
chính mà không bị ngăn chặn từ bên trong.
- Một thể chế thiếu minh bạch, dân chủ, tạo ra nhiều “ vùng
tối” khiến người dân khó giám sát và tố cáo hành vi tham nhũng.
- Một chính sách không đủ bảo đảm mức sống xứng đáng, nhất
là trong môi trường kinh tế thị trường, khiến cho người có chức vụ quyền hạn phải
tham nhũng như hành vi bất đắc dĩ.
- Một hệ thống pháp luật thiếu nghiêm minh, khiến cho người
có chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi tham nhũng mà không sợ bị trừng phạt.
- Một văn hóa chính trị và công vụ thiếu chú trọng danh dự,
liêm sỉ, thiếu đề cao sự trung thực khiến cho kẻ có chức, có quyền không sợ mất
danh dự khi tham nhũng.
- Một hệ thống báo chí, truyền thông thiếu dũng khí, không
trở thành công cụ hữu hiệu để giám sát, tố cáo hành vi tham nhũng và gây áp lực
với đấu tranh chống tham nhũng.
Bất cứ ở đâu, dù là một đảng hay đa đảng, song còn những
nhân tố như trên thì đều có thể là mảnh đất nuôi dưỡng tham nhũng, khó khăn
trong đấu tranh chống tham nhũng.
Có một điểm chung là, ở tất cả các nước dù là đa đảng hay một
đảng, nếu thành viên ban lãnh đạo cao cấp của đảng cầm quyền dính líu vào tham
nhũng, chắc chắn đảng sẽ mất uy tín, thậm chí mất quyền lãnh đạo. Ở bất cứ đâu,
vai trò đảng cầm quyền đều bị thách thức bởi cuộc đấu tranh chống tham nhũng.
Uy tín và vận mệnh của đảng chính trị nói chung, của đảng cầm quyền nói riêng
luôn bị đặt trong mối quan hệ tỷ lệ nghịch với nạn tham nhũng trong xã hội. Nói
cách khác, chống tham nhũng là thuốc thử cho phẩm chất và năng lực lãnh đạo của
đảng cầm quyền. Điều này càng đúng đối với Đảng Cộng sản.
Kinh nghiệm thực tiễn của nhiều nước chuyển đổi, từ một đảng
độc quyền tới đa đảng cạnh tranh tự do cho thấy, nếu chưa thiết lập được thể chế
kinh tế thị trường vững vàng, thể chế pháp lý chặt chẽ, nền công vụ có kỷ luật
thì quá trình chuyển đổi đó càng tạo điều kiện cho tham nhũng nảy nở, phát triển
mạnh mẽ, thậm chí thành đại dịch của đất nước (nước Nga đã từng mất hàng chục
năm như vậy và hiện nay vẫn còn bị xếp vào nhóm dưới của bảng xếp hạng tham
nhũng với thứ hạng 135/180 với 29/100 điểm, thấp hơn khá nhiều so với Việt
Nam). Ngược lại, nếu đã thiết lập được những điều kiện trên thì quá trình chuyển
đổi,sau đó sẽ êm đẹp hơn, ít tiêu cực và tham nhũng hơn ( ví dụ các nước như
Séc, Slovakia, các nước vùng Ban tích của Liên Xô cũ,…).
Nhìn lại thể chế chính trị và văn hóa của nước ta trong những
thập niên vừa qua, nhất là từ khi phát triển kinh tế thị trường, phải thẳng thắn
thừa nhận có nhiều khiếm khuyết, tạo điều kiện tham nhũng phát triển, mặc dù điều
này đi trái bản chất của Đảng và Nhà nước ta. Trước hết chúng ta chưa có kinh
nghiệm trong việc thiết kế, xây dựng các thể chế pháp lý cho kinh tế thị trường,
trong quản lý các dự án, chương trình phát triển của Nhà nước; xây dựng các cơ chế, giải pháp phòng ngừa và chống
tham nhũng.
Chúng ta cũng chưa quyết liệt trong đổi
mới tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế. Đặc biệt chế độ tiền lương của cán bộ,
công chức vẫn còn bị kìm hãm bởi tư duy cũ về công bằng, bình đằng trong phân
phối, hưởng thụ, khiến cho tham nhũng trở thành nguồn sống đối với không ít cán
bộ, công chức.
Từ khi thực hiện cơ chế thị trường, nhiều dự án, chương
trình, kế hoạch được triển khai ngay từ đầu đã tạo cơ hội cho tham nhũng. Các
khoản hoa hồng, chia chác, tỷ lệ “lại quả”, gửi giá…. gần như đã thành thông lệ
giữa các bên A, B. Việc đấu thầu công khai đã trở thành bình phong của sự xắp đặt,
sau đó có ăn chia giữa các bên. Có thể nói, tham nhũng dưới nhiều hình thức,
nhiều mức độ đã trở thành thói quen của đội ngũ công chức thực hiện chính sách,
dự án.
Vì những nguyên nhân chủ yếu đó, theo xếp hạng của Tổ chức
minh bạch quốc tế (Transparency International) chỉ số cảm nhận tham nhũng (
Coruption perceptions index) của Việt Nam trong nhiều năm luôn ở mức khiêm tốn.
Từ 2012 đến 2015 chỉ dừng ở mức 31/100 điểm. Nhờ có những nỗ lực của Đảng và
Nhà nước trong chống tham nhũng, năm 2016 CPI tăng được 2 điểm lên đến 33 và
2017 tăng lên đến 35 điểm, xếp thứ 107 trên tổng số 180 quốc gia, vùng lãnh thổ.
Như vậy, cho thấy yếu tố quyết định để đánh giá tình trạng tham nhũng chính là
sự quyết tâm và biện pháp có hiệu quả của Đảng và Nhà nước, cụ thể là của người
đứng đầu Nhà nước. Nếu không có điều này thì dù có thể chế dân chủ hoàn thiện đến
mấy cũng không thể triệt tiêu được tham nhũng.
Từ yêu cầu của thời đại và phát triển đất nước, đã đến lúc
phải nhận thức rõ hơn về ý nghĩa của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng đối
với vận mệnh của Đảng ta và hơn thế là với vận mệnh, sự sống còn của chế độ
XHCN mà chúng ta đang định hướng xây dựng.
NVT - H4
0 nhận xét:
Đăng nhận xét