Lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử phát triển và thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội. Song, không phải hình thái kinh tế - xã hội này kết thúc hoàn toàn rồi hình thái kinh tế - xã hội tiếp sau mới ra đời. Giữa hình thái kinh tế - xã hội cũ bị thay thế và hình thái kinh tế - xã hội mới sẽ thay thế nó bao giờ cũng có một giai đoạn chuyển tiếp, đó là thời kỳ quá độ. Học thuyết Mác - Lênin chứng minh rằng, loài người với tính cách một chỉnh thể nhất thiết phải trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội. Cũng như lịch sử xã hội loài người nói chung, trong thời đại ngày nay, việc bỏ qua chế độ TBCN quá độ lên CNXH ở Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu khách quan của nền kinh tế.
Thực
tiễn lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân của nước ta
chứng minh rằng, trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, có nhiều phong trào đấu
tranh chống Pháp thấm đượm tinh thần yêu nước, bất khuất, song đều lâm vào bế tắc
và cuối cùng thất bại. Chỉ khi Đảng cộng Sản Việt Nam ra đời, nhanh chóng gương
cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH đưa sự nghiệp Cách mạng Việt Nam không ngừng
phát triển đi lên.
Như
vậy, cả từ phương diện lý luận, cả từ phương diện thực tiễn vận động của lịch sử
nhân loại suốt thế kỷ XX, thập niên đầu thế kỷ XXI và đặc biệt từ thực tiễn lịch
sử đấu tranh giải phóng, xây dựng đất nước ở Việt Nam, việc nước ta quá độ lên
CNXH bỏ qua chế độ TBCN là một tất yếu khách quan, là hoàn toàn phù hợp với xu
thế của thời đại, với đặc điểm lịch sử cụ thể của cách mạng Việt Nam, đáp ứng
đúng khát vọng của nhân dân ta.
Quá
độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, như Đại hội IX của Đảng
Cộng sản Việt Nam xác định: “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là sự
phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ
qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng
tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt
được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là khoa học và công nghệ, để phát
triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”. Đây là quan điểm
phản ánh nhận thức mới, tư duy mới của Đảng ta về con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam. Thực chất quá độ lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam được thể hiện ở những nội dung sau đây:
+
Thứ nhất, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta,
tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng tư bản chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là trong thời kỳ quá độ còn nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, song sở hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa và thành phần kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa không chiếm vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế quốc dân. Trong thời kỳ quá độ ở nước ta còn nhiều hình thức
phân phối. Ngoài phân phối theo lao động là chủ đạo, còn phân phối theo mức độ
đóng góp và quỹ phúc lợi xã hội. Thời kỳ quá độ ở nước ta do còn tồn tại thành
phần kinh tế tư bản, tư nhân nên vẫn còn quan hệ bóc lột và bị bóc lột, song
quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa không giữ vai trò thống trị.
+
Thứ hai, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta
không có nghĩa là phủ định sạch trơn chủ nghĩa tư bản, mà trái lại phải tiếp
thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chủ nghĩa tư bản, đặc
biệt là những thành tựu về khoa học và công nghệ, thành tựu về quản lý để phát
triển xã hội, đặc biệt là phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền
kinh tế hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
+
Thứ ba, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta là
tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực, là sự nghiệp rất
khó khăn, phức tạp, lâu dài với nhiều chặng đường, bước đi, nhiều hình thức tổ
chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ đòi hỏi phái có quyết tâm chính trị
cao và khát vọng lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Cần phải kiên trì,
không nóng vội, chủ quan, đốt cháy giai đoạn, song cũng không thụ động, ngồi chờ
mà phải đoàn kết, nỗ lực, sáng tạo, kết hợp phát huy sức mạnh nội lực với ngoại
lực, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế.
Những
năm cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, Việt Nam là một nước thuộc
địa nửa phong kiến nổi lên hai mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn dân tộc
và mâu thuẫn giai cấp. Các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp đã
diễn ra sôi nổi, rộng khắp Bắc, Trung, Nam, song cuối cùng đều thất
bại. Sự thất bại của các phong trào đấu tranh đó, thực chất là sự thất bại
mang tính lịch sử của hệ tư tưởng phong kiến đã lỗi thời và hệ tư tưởng tư sản.
Lịch sử dân tộc Việt Nam đặt ra đòi hỏi bức thiết là phải tìm kiếm một hệ tư tưởng
mới, một học thuyết mới dẫn đường cho cách mạng phát triển đúng xu thế của thời
đại.
Thực
tiễn thế giới, vào những năm đầu của thế kỷ XX, sự kiện có tầm ảnh hưởng rất lớn
đến cách mạng Việt Nam là thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga
năm 1917. Đây là cuộc cách mạng đã mở ra một thời đại mới trong lịch sử phát
triển của nhân loại, đó là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi toàn thế giới.
Đứng
trước đòi hỏi cấp thiết của lịch sử cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã ra đi
tìm đường cứu nước, cứu dân. Người đã trải qua những năm tháng bôn ba tới nhiều
nước trên thế giới, trải nghiệm thực tiễn phong trào đấu tranh cách mạng của
giai cấp công nhân. Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến chủ nghĩa Mác - Lênin, thấy ở học
thuyết cách mạng và khoa học con đường giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,
giải phóng nhân dân, đó là con đường cách mạng vô sản.
Nguyễn
Ái Quốc dựa vào cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, thực tiễn cách
mạng và xu thế thời đại để quyết định lựa chọn con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam là đúng đắn. Nguyễn Ái Quốc vừa nhận thức rõ
con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam là bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời sớm chỉ ra điều kiện quan trọng hàng đầu
để bảo đảm cho cách mạng thắng lợi, đó là: “Trước hết phải có Đảng cách mệnh,...
Đảng có vững cách mệnh mới thành công...”
Dưới
sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã đi từ thắng
lợi này đến thắng lợi khác: chúng ta đã tiến hành thắng lợi cuộc tổng
khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công, thiết lập chính quyền công nông
và Nhà nước việt Nam ra đời; tiến hành cuộc kháng chiến đánh thắng hai đế
quốc lớn là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ
nhân dân, thống nhất đất nước, cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội.
Bước
vào thời kỳ đổi mới bắt đầu từ năm 1986, Đảng ta đã lãnh đạo đất nước đạt được
nhiều thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội.
Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, trình độ phát triển thấp, hiện nay Việt Nam đã
thoát khỏi tình trạng nước kém phát triển, trở thành một nước đang phát triển
có mức thu nhập trung bình, đời sống nhân dân được cải thiện; quốc phòng, an
ninh được củng cố vững chắc, quan hệ đối ngoại ngày càng sâu rộng, vị thế uy
tín của nước ta trên trường quốc tế ngày càng cao… Điều đó không chỉ khẳng định
sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa của
Việt Nam là đúng đắn, phù hợp với quy luật phát triển và xu thế thời đại mà còn
tạo tiền đề vững chắc để nước ta phát triển vững chắc theo định hướng xã hội chủ
nghĩa trong những chặng đường tới
Quá
độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là sự lựa chọn duy nhất
đúng, khoa học, phản ánh đúng qui luật phát triển khách quan của cách mạng Việt
Nam trong thời đại ngày nay - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội mở đầu bằng cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917.
Mặc
dù, vào cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, chủ nghĩa xã hội hiện thực
ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, các nước với chế độ xã hội và trình độ
phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt
vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hoà bình,
độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn,
thách thức, song theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến
tới chủ nghĩa xã hội.
Việt
Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa còn phù hợp với
tính quy luật về mặt lịch sử của giai đoạn hiện nay của thời đại. Giai đoạn mà
sự phát triển của xã hội loài người diễn ra với nhịp độ ngày càng nhanh, quy mô
càng lớn, do sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
hiện đại, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0), của các xu thế hoà bình, hợp
tác và phát triển, toàn cầu hoá và kinh tế tri thức… đem lại cho các quốc gia,
dân tộc nói chung, Việt Nam nói riêng nhiều thời cơ, vận hội mới để đi tắt đón
đầu trong quá trình phát triển.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét