Năm
Ất Mão (1915) 25 tuổi. Bác Hồ của chúng ta vẫn mang tên Nguyễn Tất Thành mà người
cha đã khai sinh cho Bác. Năm này anh Thành vừa lao động cực nhọc để kiếm sống ở
nước Anh sương mù, giá lạnh, vừa mải miết học tiếng Anh với quyết tâm có thêm
được chìa khóa ngôn ngữ để mở cánh cửa tri thức, bước vào chiếm lĩnh kho tàng
kiến thức của nhân loại, tìm đường dẫn tới độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc
mình đang bị đọa đầy dưới ách thống trị của ngoại bang.
Năm
Đinh Mão (1927) 37 tuổi. Nguyễn Tất Thành mang tên Nguyễn Ái Quốc, đã trở thành
một chiến sĩ quốc tế đấu tranh kiên cường giải phóng những người cần lao. Từ khẩu
hiệu của C.Mác, Ph.Ăng-ghen: “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!” và của
VI.Lê-nin “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!”, Nguyễn
Ái Quốc đã nêu khẩu hiệu “Lao động tất cả các nước, đoàn kết lại!”. Ba khẩu hiệu
cách mạng mang tầm trí tuệ của các vĩ nhân nối tiếp nhau như một dòng chảy liên
tục của văn hóa, như tiếng kèn thức tỉnh những người cần lao trên trái đất vùng
lên đấu tranh cho độc lập, tự do, cơm áo, hòa bình và thịnh vượng chung. Trong
năm Đinh Mão này, Người dành nhiều công sức cho việc huấn luyện, đào tạo cán bộ.
Năm
Kỷ Mão (1939) 49 tuổi. Thông qua một người bạn là chủ nhiệm Báo Notre Voix, Người
gửi cho BCH Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương địa chỉ của mình và “8 điểm định
hướng cho đường lối, chủ trương cách mạng Việt Nam”. Trong đó, Người lưu ý: Phải
tổ chức Mặt trận dân tộc dân chủ rộng rãi; phải có thái độ khéo léo, mềm dẻo,
lôi kéo tư sản dân tộc về phía Mặt trận; kiên quyết chống tư tưởng bè phái, phải
tổ chức học tập có hệ thống Chủ nghĩa Mác-Lênin. Người nhấn mạnh: “Đảng không
thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ
phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và
công tác hàng ngày, khi quần chúng thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực
lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”.
Năm
Tân Mão (1951) 61 tuổi. Năm này cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang trên
đà thắng lợi, tình hình chính trị - xã hội và ngoại giao đã có nhiều thuận lợi,
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng quyết định triệu tập Đại hội II của Đảng, đưa Đảng
ra hoạt động công khai và đổi tên thành Đảng Lao động Việt Nam. Đây là một kỳ Đại
hội mang đậm dấu ấn thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Theo quan điểm của Chủ
nghĩa Mác-Lênin, Đảng Cộng sản mỗi nước là sản phẩm của sự kết hợp Chủ nghĩa
Mác-Lênin với phong trào công nhân. Xuất phát từ thực tế lịch sử xã hội Việt
Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và xác định Đảng
là sản phẩm của sự kết hợp giữa Chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước. Do đó, Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là Đảng của giai cấp
công nhân mà còn là của nhân dân lao động. Do vậy, đổi tên Đảng thành Đảng Lao
động Việt Nam là một quyết định chính trị sáng suốt, làm cho Đảng có sức hấp dẫn,
lôi kéo các giai tầng khác trong xã hội đoàn kết xung quanh Đảng làm cách mạng.
Báo cáo chính trị do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày tại Đại hội II của Đảng
(năm 1951) chỉ rõ: “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động và của cả dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là
Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của
dân tộc Việt Nam”.
Ngày
25-3-1951 Hồ Chủ tịch viết bài “Người đảng viên Đảng Lao động Việt Nam phải như
thế nào?” đăng trên Báo Nhân Dân. Người viết: “Tuyên ngôn của Đảng đã trả lời
rõ…: Đảng Lao động Việt Nam sẽ gồm những công nhân, nông dân và lao động trí óc
yêu nước nhất, hǎng hái nhất, cách mệnh nhất. Nó sẽ gồm những người kiên quyết
phụng sự Tổ quốc, phụng sự Nhân dân, phụng sự lao động, những người chí công vô
tư, làm gương mẫu trong công cuộc kháng chiến kiến quốc… Ai mà không như thế,
thì không xứng đáng là người đảng viên Đảng Lao động Việt Nam. Làm gương mẫu thế
nào? Nói chung, thì người đảng viên ở bất kỳ đâu, bất kỳ làm việc gì, bất kỳ địa
vị nào và hoàn cảnh nào, cũng phải luôn luôn: Đặt lợi ích của Tổ quốc, của Nhân
dân lên trên hết, trước hết/ Phải ra sức tham gia công việc kháng chiến/ Phải gần
gũi dân chúng, thương yêu giúp đỡ dân chúng, tổ chức và lãnh đạo dân chúng/ Phải
giữ vững đạo đức cách mệnh là chí công vô tư… Vì vậy, mỗi đảng viên phải luôn
luôn cố gắng”.
Ngày
1-5-1951 Hồ Chủ tịch viết bài “Đảng Lao động Việt Nam với lao động trí óc” đăng
trên Báo Nhân Dân, khẳng định: “Đảng Lao động Việt Nam sẽ gồm những công nhân, nông
dân và lao động trí óc yêu nước nhất, hǎng hái nhất, cách mệnh nhất... Lao động
trí óc cần được khuyến khích giúp đỡ, phát triển tài nǎng… Lao động trí óc là
ai? Là thầy giáo, thầy thuốc, kỹ sư, những nhà khoa học, vǎn nghệ, những người
làm bàn giấy, v.v..
Ngày
20-5-1951, bài báo “Tự phê bình” của Chủ tịch Hồ Chí Minh với bút danh C.B đăng
trên Báo Nhân Dân chỉ rõ: “Dao có mài, mới sắc/ Vàng có thui, mới trong/ Nước
có lọc, mới sạch/ Người có tự phê bình, mới tiến bộ. Đảng cũng thế/ Tự phê bình
là gì? Là thật thà nhận, công khai nhận trước mặt mọi người những khuyết điểm của
mình để tìm cách sửa chữa/ Điều đó nói thì dễ, nhưng làm thì khó. Khó là vì người
ta hay có lòng tự ái. Thừa nhận cái sai, cái dốt, cái kém của mình, thì sợ mất
thể diện, mất uy tín… Ai cũng cần tắm rửa cho mình mẩy sạch sẽ. Thì ai cũng cần
tự phê bình cho tư tưởng và hành động được đúng đắn.
Ngày
12-7-1951 bài báo “Phê bình” của Chủ tịch Hồ Chí Minh với bút danh C.B đăng
trên Báo Nhân Dân chỉ rõ: “Khuyết điểm cũng như một chứng bệnh. Phê bình là thuốc
để chữa các bệnh khuyết điểm. Phê bình là cốt giúp nhau sửa chữa khuyết điểm,
cho nên thái độ của người phê bình phải thành khẩn, nghiêm trang, đúng mực. Phải
vạch rõ vì sao có khuyết điểm ấy, nó sẽ có kết quả xấu thế nào, dùng phương pháp
gì để sửa chữa. Thuốc phải nhằm đúng bệnh. Tuyệt đối không nên có ý mỉa mai, bới
móc, báo thù. Không nên phê bình lấy lệ. Càng không nên “trước mặt không nói,
xoi mói sau lưng”. Phê bình là quyền lợi và nhiệm vụ của mọi người, là thực
hành dân chủ. Cấp dưới có quyền phê bình cấp trên. Nhân dân có quyền phê bình
cán bộ, phê bình chính quyền, Đảng và các đoàn thể. Mọi người có quyền phê bình
nhau để cùng nhau tiến bộ. Không phê bình tức là bỏ mất một quyền dân chủ của
mình. Song phê bình phải đường hoàng, chính đáng, quyết không nên “thầm thì thầm
thụt”.
Đảng
viên và cán bộ, Đảng, các đoàn thể nhân dân và chính quyền cần phải hoan nghênh
và khuyến khích nhân dân phê bình. Nếu phê bình sai, thì phải giải thích. Phê
bình đúng, thì phải công khai thừa nhận và sửa chữa.
Dìm
phê bình hoặc phớt phê bình là khinh rẻ ý kiến nhân dân, là trái với dân chủ,
và rất có hại, cũng như có bệnh mà từ chối uống thuốc.
Ngày
19-7-1951 Chủ tịch Hồ Chí Minh với bút danh C.B đăng trên Báo Nhân Dân bài “Thực
hành sinh ra hiểu biết. Hiểu biết tiến lên lý luận. Lý luận lãnh đạo thực
hành”. Trong đó có đoạn viết: “… Lý luận rất quan trọng. Lê-nin nói: “Không có
lý luận cách mạng thì không thể có vận động cách mạng”. Lý luận sở dĩ quan trọng
là vì nó dạy ta hành động. Nếu đưa một lý luận rất đúng ra nói, rồi xếp nó lại
một xó, không đưa ra thực hành, thì lý luận ấy thành lý luận suông.
Ngày
2-9-1951 Chủ tịch Hồ Chí Minh với bút danh C.B đăng trên Báo Nhân Dân bài “Cần
tẩy sạch bệnh quan liêu mệnh lệnh”.
Ngày
13-12-1951, Bác Hồ viết bài “Tinh thần trách nhiệm của Bác”, ký tên C.B. đăng
trên Báo Nhân Dân có những chỉ dẫn quan trọng: “Hiện nay, phong trào tự phê
bình và phê bình đang mở rộng ở nhiều nơi. Đó là một bước tiến đáng mừng. Nhưng
trong những cuộc kiểm thảo, có một thiếu sót chung và quan trọng là chưa nêu thật
rõ tinh thần trách nhiệm”.
Năm
Quý Mão (1963) 73 tuổi. Bác Hồ viết Thư mừng năm mới gửi đồng bào cả nước và kiều
bào ta ở nước ngoài. Trong thư khẳng định: “Nước Việt Nam là một/ Dân tộc Việt
Nam là một/ Dù cho sông cạn đá mòn/ Nhân dân Nam Bắc, là con một nhà/... Chúng
ta cùng nhau:/ Mừng năm mới, Cố gắng mới/ Tiến bộ mới/ Chúc Quý Mão là năm nhiều
thắng lợi”.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét