Quần đảo Trường Sa nằm ở giữa Biển Đông trải trên một khu vực
biển khá rộng chiều ngang từ đông sang tây khoảng 800 km chiều dọc từ Bắc xuống
Nam khoảng 600 km. Quần đảo bao gồm hơn 100 đảo, bãi cạn, bãi đá ngầm với khoảng
140 vị trí.
Đầu năm 1986, Trung Quốc bắt đầu đưa các tàu quân sự giả dạng
tàu cá xuống trinh sát các bãi đá ngầm, lén lút đặt một số cột bê - tông để “đánh
dấu chủ quyền”. Ngày 3/9/1987 Quốc hội Trung Quốc thông qua văn bản tách đảo Hải
Nam khỏi tỉnh Quảng Đông, thành lập tỉnh Hải Nam và trắng trợn sát nhập quần đảo
Hoàng Sa (họ đặt tên là Tây Sa) và Trường Sa (họ gọi là Nam Sa) của Việt Nam
vào tỉnh Hải Nam.
Sau đó hải quân Trung Quốc
liên tục cho tàu chiến giả dạng tàu dân sự để khảo sát, trinh sát thăm dò quần
đảo Trường Sa nhằm âm mưu xâm chiếm các đảo chìm.
Ngày 6/11/1987, Bộ Quốc
phòng Việt Nam giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân đưa lực lượng
ra giữ các bãi cạn, trước mắt đóng giữ các điểm đảo Đá Tây, Chữ Thập, Đá Lớn,
Tiên Nữ. Ngày 22/1/1988, Trung Quốc đưa 1 tàu hộ vệ tên lửa, 1 tàu khu trục,
1 tàu đổ bộ, 1 tàu chở dầu và một số tàu hậu cần xuống phía Nam; ngày
26/1/1988, hải quân Trung Quốc chiếm đóng Đá Chữ Thập rồi nhanh chóng đưa lực
lượng xuống củng cố thành căn cứ đầu cầu ở Trường Sa. Ngày 18/2, Trung Quốc chiếm
thêm đá Châu Viên, rồi sau đó đưa lực lượng lên các bãi ngầm Ga Ven (26/2), Tư
Nghĩa (Hughes, 28/2). Trong khi đó, hải quân Việt Nam đóng giữ thêm các bãi ngầm
và đá Tiên Nữ (26/1), Đá Lát (5/2), Đá Lớn (6/2), Đá Đông (18/2), Tốc Tan
(27/2), Núi Le (2/3).
Đầu tháng 3/1988, Hải quân Trung Quốc huy động lực lượng lớn
thuộc 2 hạm đội Nam Hải và Đông Hải xuống khu vực quần đảo Trường Sa, nâng số
tàu chiến có mặt ở đây từ 9 lên 12 chiếc; ngoài ra còn có 3 tàu vận tải, 1 tàu
đo đạc, 1 tàu kéo, 1 phao bè (ponton) lớn với ý đồ nhằm chiếm giữ cụm tam giác
3 bãi ngầm Gạc Ma – Cô Lin – Len Đao. Mặc dù điều kiện phương tiện, trang bị của
Hải quân nhân dân Việt Nam ở vùng IV thời điểm đó chủ yếu là tàu vận tải, sức
chở hạn chế, hỏa lực yếu nhưng Bộ Tư lệnh Quân chủng vẫn hạ quyết tâm đóng giữ
cụm tam giác Gạc Ma - Cô Lin - Len Đao.
Sự kiện ngày 14/3/1988, cùng với sự kiện 19/01/1974, là những
dấu mốc lịch sử quan trọng trong quá trình dân tộc Việt Nam, Nhà nước Việt Nam
qua các thời kỳ đã chiến đấu bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của mình trong Biển
Đông, là dấu ấn không bao giờ phai mờ trong tâm khảm của mỗi con dân đất Việt.
Đây là sự kiện cần được quan tâm nghiên cứu đầy đủ và phải rút ra được những
bài học quý giá nhằm phục vụ cho sự nghiệp đấu tranh bảo vệ chủ quyền thiêng
liêng của Đất nước hiện tại và tương lai.
Thực ra, thời điểm ngày 14/3 chỉ là đỉnh
điểm của cả một chiến dịch theo kịch bản đã được Trung Quốc tính toán, triển
khai nhằm thực hiện quyết tâm đặt được chân lên khu vực quần đảo Trường Sa. Thời
điểm trước đó, CHND Trung Hoa chưa từng chiếm đóng được vị trí nào trên quần đảo
Trường Sa của Việt Nam (trừ Đài Loan đã chiếm đóng trái phép đảo Ba Bình từ năm
1956), trong khi hầu hết các đảo nổi chủ yếu của quần đảo Trường Sa đều đã do
các lực lượng Việt Nam đóng giữ, bảo vệ với tư cách những chủ nhân thật sự,
ngoài ra còn có sự chiếm đóng của Philippinnes, Malaysia trên một số đảo ở phía
Đông và Nam của quần đảo này.
Việt Nam đã tiếp quản các đảo nổi trong chiến dịch Hồ Chí
Minh và tiếp tục thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với các đảo nổi, còn
các đảo chìm, bãi cạn, bãi đá phụ thuộc, lúc đó Việt Nam chỉ tiến hành bảo vệ,
quản lý bằng biện pháp quan sát, tuần tra định kỳ mà chưa có điều kiện xây dựng
các công trình như hiện nay. Hơn nữa, ngay cả việc tuần tra kiểm soát đó trong
điều kiện lúc bấy giờ cũng không phải lúc nào cũng thực hiện được… Đây là một
tình thế mà Trung Quốc đã lợi dụng triển khai chiến dịch đánh chiếm các đảo
chìm, các bãi đá… nhằm biến các bãi cạn này thành các căn cứ quân sự, các điểm
đóng quân, để "đặt được chân" vào khu vực Trường Sa của Việt Nam.
Trung Quốc đã triển khai chiến dịch "đặt chân" này ngay từ đầu năm
1988, đồng thời với một loạt các động thái trên phương diện thông tin tuyên
truyền, ngoại giao, pháp lý… diễn ra trước, trong và sau chiến dịch này nhằm biện
minh cho hành động xâm chiếm băng vũ lực của họ…
Trước tình hình đó, trong tình thế hết sức khó khăn về nhiều
mặt, Việt Nam vẫn cố gắng tìm mọi cách xây dựng, củng cố các khu vực, các vị
trí của quần đảo Trường Sa mà Việt Nam đang quản lý, bằng việc đưa tàu vận tải
chở vật liệu xây dựng ra các đảo chìm, bãi đá theo một kế hoạch mang tên CQ-88.
Công binh Hải quân Việt Nam đang thực hiện nhiệm vụ xây dựng
củng cố các cơ sở nhằm phục vụ công tác bảo vệ, quản lý, khai thác khu vực quần
đảo Trường Sa một cách hòa bình. Trung Quốc đã bất chấp luật pháp quốc tế, nổ
súng vào những người lính công binh xây dựng không được trang bị chiến đấu...
Khi buộc phải nổ súng để tự vệ, các chiến sĩ công binh, bằng sức mạnh của lòng
yêu nước, không tiếc máu xương, họ đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng để bảo vệ
mãnh đất thiêng của cha ông để lại, giữ vững ngọn cờ vẻ vang của Tổ quốc luôn
hiên ngang tung bay giữa trùng khơi sóng gió… (TS Trần Công Trục, Nguyên Trưởng
Ban Biên giới Chính phủ).
Về phía Trung Quốc, không chỉ dừng lại ở những vị trí chiếm
đóng bất hợp pháp nói trên, họ còn tiếp tục tổ chức chiếm thêm 3 đá Cô Lin, Len
Đao và Gạc Ma, gây ra sự kiện 14 tháng 3 đẫm máu.
Theo các nguồn thông tin đáng tin cậy, trong chiến dịch
này, Trung Quốc đã huy động một liên đội tàu chiến gồm 9 đến 12 tàu chiến.
Trong đó có 1 tàu khu trục tên lửa, 7 tàu hộ vệ tên lửa, 2 tàu hộ vệ pháo, 2
tàu đổ bộ, 3 tàu vận tải hỗ trợ. Ngoài ra, có tàu đo đạc, tàu kéo... và một
Pông - Tông lớn.
Trong khi đó, Việt Nam chỉ có 3 tàu vận tải, chủ yếu lực lượng
Công binh Hải quân ra làm nhiệm vụ xây dựng đảo, đá với 2 phân đội công binh gồm
70 người và 4 tổ chiến đấu. Các tàu vận tải của Việt Nam gồm HQ - 604, HQ -
505, HQ - 605, đều là những tàu không trang bị vũ khí, ngoại trừ những khẩu AK
của các chiến sỹ công binh để tự vệ khi cần thiết.
Từ thực trạng nói trên chúng ta thấy rõ một bên là Trung Quốc
đã tổ chức một chiến dịch quân sự nhằm tiến hành xâm chiếm lãnh thổ thuộc chủ
quyền của Việt Nam; trong khi đó, Việt Nam hoàn toàn không có ý định sử dụng lực
lượng quân sự để tiến hành hải chiến theo quy luật chiến tranh thông thường mà
chỉ sử dung 3 con tàu vận tải làm nhiệm vụ chi viện cho các đảo thuộc quyền quản
lý của mình. Khi buộc phải nổ súng để tự vệ, các chiến sĩ công binh, bằng sức mạnh
của lòng yêu nước, không tiếc máu xương, họ đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng
để bảo vệ mảnh đất thiêng của cha ông để lại, giữ vững ngọn cờ vẻ vang của Tổ
quốc luôn hiên ngang tung bay giữa trùng khơi sóng gió…
Theo các tài liệu, trận chiến Trường Sa năm 1988 được ghi lại
khá đầy đủ, chi tiết:
Tại khu vực đá Gạc Ma, sáng ngày 14/3, từ tàu HQ-604 đang
thả neo tại Gạc Ma làm nhiệm vụ xây dựng, Trần Đức Thông, Lữ đoàn phó Lữ đoàn
146, phát hiện thấy bốn chiếc tàu lớn của Trung Quốc đang tiến lại gần. Tổ 3
người gồm thiếu uý Trần Văn Phương và hai chiến sĩ Nguyễn Văn Tư, Nguyễn Văn
Lanh được cử lên đá bảo vệ lá cờ Việt Nam đang tung bay trên đá Gạc Ma.
Phía Trung Quốc cử hai xuồng chở tám lính có vũ khí lao thẳng
về phía đá. Chỉ huy Trần Đức Thông ra lệnh cho các thủy thủ từ tàu 604 tiến về
bảo vệ để hình thành tuyến phòng thủ, không cho đối phương tiến lên.
Khoảng 6h sáng, Hải quân Trung Quốc thả ba thuyền nhôm và bốn
mươi quân đổ bộ lên đá giật cờ Việt Nam. Hạ sĩ Nguyễn Văn Lanh bị lê đâm và bắn
bị thương. Thiếu úy Trần Văn Phương bị bắn tử thương.
Lúc 7 giờ 30 phút, Trung Quốc dùng hai chiến hạm bắn pháo
100 mm vào tàu 604, làm tàu bị hỏng nặng. Hải quân Trung Quốc cho quân xông về
phía tàu Việt Nam. Thuyền trưởng Vũ Phi Trừ chỉ huy đánh trả quyết liệt, buộc đối
phương phải nhảy xuống biển bơi trở về tàu.
Hải quân Việt Nam vừa chiến đấu, vừa tổ chức băng bó, cứu
chữa thương binh và hỗ trợ các chiến sĩ bảo vệ cờ. Trung Quốc tiếp tục nã pháo,
tàu 604 của Việt Nam bị thủng nhiều lỗ và chìm dần xuống biển. Vũ Phi Trừ -
thuyền trưởng, Trần Đức Thông - lữ đoàn phó Lữ đoàn 146, cùng một số thủy thủ
trên tàu đã hy sinh cùng tàu 604 ở khu vực đá Gạc Ma.
Tại đá Cô Lin, 6h, tàu HQ-505 của Việt Nam đã cắm hai lá cờ
trên đá. Khi thấy tàu 604 của Việt Nam bị chìm, thuyền trưởng tàu HQ-505, Vũ
Huy Lễ ra lệnh nhổ neo cho tàu ủi bãi. Phát hiện tàu HQ-505 đang lên bãi, 2 tàu
của Trung Quốc quay sang tiến công tàu 505. Khi tàu HQ-505 trườn lên được hai
phần ba thân tàu lên đá thì bốc cháy.
8h15, thủy thủ tàu HQ-505
vừa triển khai lực lượng dập lửa cứu tàu, bảo vệ đá, và đưa xuồng đến cứu thủy
thủ tàu 604 bị chìm ở phía bãi Gạc Ma ngay gần đó.
Hành động dũng cảm ủi bãi của thuyền trưởng Vũ Huy Lễ và đồng
đội đã giữ được đá Cô Lin.
Tại đá Len Đao, 8 giờ 20 phút ngày 14 tháng 3, Hải quân
Trung Quốc bắn mãnh liệt vào tàu HQ-605 của Hải quân Việt Nam. Tàu 605 bị bốc
cháy và chìm lúc 6 giờ ngày 15 tháng 3.
Thượng uý Nguyễn Văn Chương và trung uý Nguyễn Sĩ Minh tổ
chức đưa thương binh và chiến sĩ về tàu 505 (sau khi bị bắn cháy nằm trên đá Cô
Lin). Thi hài các chiến sĩ Trần Văn Phương, Nguyễn Văn Tư, cùng các thương binh
nặng được đặt trên xuồng. Số người còn sức một tay bám thành xuồng một tay làm
mái chèo đưa xuồng về đến đá Cô Lin.
Nhiều cứ liệu lịch sử, nhiều bài báo nhắc đến sự kiện này.
Trong đó, có đoạn video đầy xúc động về trận chiến Trường Sa, do một bạn trẻ
yêu nước đưa lên mạng từ năm 2009. Video thu hút hàng triệu lượt người xem, khi
xem video này nhiều người xúc động không cầm được nước mắt.
Khoảng một tháng sau trận hải chiến tại Gạc Ma, Hải quân Việt
Nam đưa ba mươi lăm công binh và bảy thủy binh cùng vật liệu xây dựng bí mật đổ
bộ trong đêm lên đá Len Đao xây nhà đánh dấu chủ quyền. Lặp lại kịch bản Gạc
Ma, trong ngày Trung Quốc đưa bảy tàu chiến và nhiều xuồng nhỏ bao vây uy hiếp
số quân Việt Nam trên đá. Tuy nhiên lần này Việt Nam cho bảy máy bay chiến đấu
từ đất liền bay ra phía đá hỗ trợ nên số tàu chiến của Trung Quốc tản ra, đụng
độ không nổ ra, phía Việt Nam giữ được đá và hoàn thành việc xây dựng nhà trên
đá. Như vậy là Quân Đội nhân dân Việt Nam đã bảo vệ thành công Cô Lin và Len
Đao trước âm mưu xâm chiếm lãnh thổ bằng vũ lực của Trung Quốc.
Trận chiến này, 64 chiến sĩ đã hy sinh, 11 chiến sĩ bị
thương. Máu và thân xác các anh đã hòa cùng sóng biển nhưng tấm gương dũng cảm,
mưu trí bảo vệ chủ quyền Tổ quốc của các anh sẽ mãi là những thiên sử anh hùng,
bất diệt./.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét