CHÀO MỪNG ĐẾN VỚI BLOG GIỮ TRỌN LỜI THỀ

Thứ Tư, 10 tháng 5, 2023

ƯỚC MƠ VÀ KHÁT VỌNG XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC PHỒN VINH, HẠNH PHÚC

 

Lần đầu tiên, tại Đại hội XIII, Đảng ta đưa ra quan điểm “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Đây là một luận điểm rất mới, thể hiện khát vọng mãnh liệt về xây dựng một đất nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, văn minh, hạnh phúc.

Thế nhưng, hiện nay trên mạng xã hội, đã xuất hiện một số quan điểm sai trái, lệch lạc về vấn đề này. Để hiểu đúng bản chất của khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; chúng ta cần phân tích, làm rõ tính khách quan và yêu cầu tất yếu phải thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc ở nước ta. Khát vọng là gì; tại sao khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc lại là vấn đề khách quan, mang tính quy luật, cần nhận thức đúng, thực hiện hiệu quả?

Khát vọng được hiểu là mong muốn đạt được những điều lớn lao, tốt đẹp trong cuộc sống; thôi thúc con người vượt qua khó khăn, thử thách để đạt mục tiêu đã xác định. Khát vọng được ví như “ngọn hải đăng” soi sáng con đường đi đến thành công, động lực thôi thúc phấn đấu, đạt được mục tiêu. Khát vọng không phân biệt địa vị, giới tính, tuổi tác, trình độ và chế độ...

Khát vọng không chỉ có ở mỗi người dân mà nó còn có ở mỗi gia đình, mỗi địa phương, mỗi dân tộc và cả nhân loại. Khát vọng không thể tự nó biến thành hiện thực mà cần được “khơi dậy”, “phát huy” bằng các biện pháp phù hợp, khả thi. Thực tiễn lịch sử cho thấy, sự phát triển hùng mạnh của nhiều quốc gia, dân tộc đều bắt nguồn từ khát vọng phát triển, thực hiện tiến bộ xã hội. Đối với lịch sử nhân loại, khát vọng về hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ luôn là dòng chảy chủ đạo; mục tiêu phấn đấu.

Khát vọng khác với tham vọng, bởi tham vọng là những mong ước quá lớn, vượt ra ngoài khả năng, chủ thể có tham vọng sẽ hành động bất chấp quy luật, bất chấp đạo lý, bằng mọi giá để đạt được mục đích mà không cân nhắc kỹ lưỡng đúng sai, được mất; mối quan hệ và lợi ích của chủ thể khác.

Khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc mà Đảng ta đề cập tại Đại hội XIII là hoàn toàn có cơ sở khoa học, hợp lòng dân, ý Đảng. Nó xuất phát từ lịch sử truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, bắt nguồn từ khát vọng độc lập dân tộc; yêu hòa bình. Trải qua hằng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, trong bất cứ hoàn cảnh nào, tinh thần đoàn kết, ý thức độc lập dân tộc, tự chủ, tự lực, tự cường luôn được khơi dậy và phát huy. Nó trở thành mạch nguồn truyền thống, ngọn lửa khát vọng không bao giờ tắt; luôn thôi thúc mỗi người dân đất Việt vượt qua gian khổ, hiểm nguy để dựng xây cuộc sống ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.

Truyền thống Lạc Long Quân - Âu cơ cho chúng ta hiểu giá trị thiêng liêng của hai tiếng “đồng bào”. Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa để “đền nợ nước, trả thù nhà”. Bà Triệu “muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ”... Khát vọng ấy thôi thúc những đoàn quân tiến về phía trước để nhà Lý hai lần đánh tan quân Tống, nhà Trần ba lần đánh thắng quân Nguyên - Mông, nhà Lê quét sạch giặc Minh, giữ yên bờ cõi. Ngày nay vẫn còn đâu đó khí thế Bạch Đằng, Chi Lăng và tiếng trống trận Quang Trung... Nối tiếp mạch nguồn, hồn thiêng dân tộc, trong thời đại Hồ Chí Minh, ngọn lửa truyền thống yêu nước và khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc được phát huy và nâng lên tầm cao mới.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, khát vọng Việt Nam luôn được khơi dậy, đất nước “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”; Cách mạng Tháng Tám đã mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc và CNXH, với chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu”, với Đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước... Đất nước hòa bình, thống nhất, khát vọng Việt Nam được khơi dậy trở thành làn sóng dựng xây. Cùng với đó, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một xã hội ấm no, tự do, hạnh phúc; không còn áp bức, bóc lột, bất công. Đó là CNXH, giai đoạn đầu của CNCS.

Kế thừa và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiên cụ thể của Việt Nam, Bác Hồ khẳng định muốn cứu nước, giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản; chỉ có làm cách mạng vô sản thành công thì dân tộc mới hoàn toàn được độc lập, nhân dân mới hoàn toàn được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Khát vọng về giải phóng dân tộc được Người khơi dậy ở tinh thần “Dù có phải dốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng kiên quyết giành cho được độc lập”.

Trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến năm 1946, Người đã kêu gọi đồng bào, chiến sĩ cả nước “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Người đã khẳng định lập trường của nhân dân Việt Nam là “Kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, không ai có quyền xâm phạm đến chủ quyền thiêng liêng của nhân dân ta”.

Khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc xuất phát từ quan điểm nhất quán của Đảng ta về xây dựng đất nước theo con đường XHCN. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã khẳng định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Suốt hơn 93 năm qua, Đảng ta luôn kiên trì với mục tiêu đó, trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng Việt Nam. Độc lập dân tộc là tiền đề, điều kiện tiên quyết để thực hiện CNXH, còn CNXH là bước phát triển tất yếu, là điều kiện để củng cố và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) chỉ rõ: “Đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”.

Khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc xuất phát từ bài học thực tiễn về thực hiện khát vọng. Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công đã chuyển CNXH khoa học từ lý tưởng thành hiện thực. Ước mơ thoát khỏi chế độ áp bức, bóc lột, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của loài người đã thành sự thật. Điều đó đã cổ vũ nhân dân toàn thế giới đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc, thực hiện khát vọng hòa bình, phát triển. Những thành tựu của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu vào những năm 70 của thế kỷ XX đã chứng tỏ tính ưu việt của CNXH. Liên Xô đã trở thành một trong hai cường quốc hàng đầu thế giới; là thành trì phe XHCN.

Trên thế giới, nhiều quốc gia đều có một điểm chung về khát vọng, đó là ý chí vươn lên, chiến thắng nghịch cảnh; nghèo nàn, lạc hậu. Đây là cội nguồn sức mạnh, tạo nên những “thần kỳ Nhật Bản”, “kỳ tích Sông Hàn” hay câu chuyện thần kỳ mang tên Singapo.

Đối với Việt Nam, sau hơn 37 năm đổi mới, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế to lớn như ngày nay. Năm 2020, Việt Nam trở thành nền kinh tế lớn thứ 4 trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD. Liên tiếp trong 4 năm, từ năm 2016-2019, Việt Nam đứng trong top 10 nước tăng trưởng cao nhất thế giới, là một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất.

Như vậy, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc không phải là một huyễn tưởng, tự phát từ ngẫu hứng, chủ quan, duy ý chí như kẻ xấu xuyên tạc mà là khát vọng cháy bỏng bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử, từ niềm tin vững chắc vào cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín của đất nước mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã kiểm nghiệm, đúc kết trong thực tiễn lịch sử đấu tranh cách mạng và sau hơn 37 năm đổi mới đất nước; là cơ sở quan trọng để Đảng ta lãnh đạo nhân dân ta thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; biến khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc thành hiện thực trên đất nước Hồ Chí Minh.

Để thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam “dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, Đại hội XIII của Đảng đã đề cập đến “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Đại hội khẳng định đây vừa là mục tiêu phấn đấu, vừa là một kế sách, một giải pháp hữu hiệu để thực hiện các chỉ tiêu, mục tiêu, nhiệm vụ mà Đại hội XIII của Đảng đề ra.

Chúng ta phấn đấu “Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”.

Vì vậy, chúng ta cần: a) Đẩy mạnh tuyên truyền, khẳng định những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử đã đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng để củng cố niềm tin; “không ngủ quên trên vòng nguyệt quế”, “không được ngủ quên trên chiến thắng”; “chúng ta tuyệt nhiên không chủ quan, thỏa mãn; không say sưa với thành tích, thắng lợi”; b) Tiếp tục tháo gỡ những “nút thắt”, “điểm nghẽn” trong cơ chế quản lý, chăm lo xây dựng, phát triển nguồn lực con người, nhất là nguồn lực chất lượng cao, thế hệ trẻ; c) Tăng cường xây dựng Đảng, nêu cao ý thức, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; thực hiện tốt phương châm: “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”; “trên làm gương mẫu mực, dưới tích cực làm theo”; d) Dựa vào dân, tin vào sức mạnh to lớn của nhân dân; “có dân là có tất cả”; quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Bởi vì, “dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong”.

NTH-PĐT

 

 

 

0 nhận xét: