Ngày
02/02/2023, Hạ viện Mỹ chính thức thông qua Nghị quyết “Lên án sự khủng khiếp của
chủ nghĩa xã hội”. Đây là một nghị quyết “không mang tính ràng buộc”. Nó thể hiện
thái độ của Hạ viện Mỹ đối với chủ thể được nêu trong Nghị quyết.
Tính chủ
quan, phản khoa học trong nội dung Nghị quyết
Tính chủ quan
của Nghị quyết thể hiện ở việc sử dụng những câu nói, trích dẫn nội dung trong
tuyên bố của các vị Tổng thống Mỹ ngụy tạo “chân lý”, làm cơ sở tham chiếu đánh
giá tính khoa học của một hệ thống lý luận cũng như hiện thực xã hội đã được cộng
đồng nhân loại thừa nhận.
Những tuyên bố
của các đời tổng thống Mỹ đều khẳng định tôn trọng quyền cá nhân. Chính quyền Mỹ
đang duy trì điều đó và người dân Mỹ hiện nay đang tôn trọng, ủng hộ điều đó.
Đó là chuyện của nội bộ nước Mỹ, quyền lựa chọn của đa số người dân Mỹ. Các nước
khác, dù có cùng chế độ chính trị hay khác biệt về chế độ chính trị đều tôn trọng
đặc điểm đó của nước Mỹ. Chưa phát hiện ra quốc gia nào trên thế giới buộc Mỹ
phải thay đổi chế độ để làm điều kiện quan hệ, hợp tác.
Tuy nhiên Nước
Mỹ không có quyền ép buộc các dân tộc khác trên thế giới phải tuân thủ quan điểm
đó của mình. Nếu nước Mỹ dùng các biện pháp kinh tế, chính trị, văn hóa tác động
trực tiếp với mục tiêu buộc quốc gia khác phải thay đổi chế độ chính trị thì đó
thực chất là hành động xâm lược, nô dịch về tư tưởng, chính trị, văn hóa.
Hơn nữa, việc
tôn trọng quyền sở hữu tư nhân và phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không đại
biểu cho lợi ích cao nhất của công nhân lao động. Bởi vì, mỗi giây phút lao động,
họ đang bị chủ sử dụng lao động tước đoạt một phần giá trị sức lao động. Chính
sự tước đoạt đó làm nên sự giàu có của nhà tư bản và nước Mỹ của họ. Đó không
phải là mục tiêu phấn đấu tối hậu của các nước phát triển theo mô hình XHCN.
Vì vậy, nội
dung Nghị quyết thể hiện rõ tính chủ quan, áp đặt của Hạ viện Mỹ khi quy kết những
giá trị của CNXH không giống với giá trị Mỹ và đánh giá CNXH mang tính “man rợ,
tàn bạo”. Đó là thái độ rất thiếu văn minh và đi ngược lại những mục tiêu hòa
bình, hợp tác, phát triển và giá trị chung mà nhân loại đang phấn đấu, chung
tay thực hiện.
Tính phản
khoa học của nội dung Nghị quyết thể hiện trong kết luận khi tuyên bố “bác bỏ
CNXH dưới mọi hình thức”.
CNXH là sản
phẩm của lịch sử xã hội loài người, ra đời và phát triển một cách tất yếu và
khách quan. Bác bỏ hiện thực đó là phủ nhận quy luật xã hội; là đi ngược lại sự
phát triển của lịch sử nhân loại; chính là quan điểm phản khoa học.
Thái độ hằn học
và sự xuyên tạc lịch sử trong nội dung Nghị quyết
Ngôn từ sử dụng
để chỉ trích CNXH trong văn kiện thể hiện rõ thái độ thù địch và hận thù với chế
độ xã hội của quốc gia khác; gắn sự miệt thị đối với tên tuổi của những cá nhân
lãnh đạo các quốc gia khác. Đó là biểu hiện của sự thiếu tôn trọng con người, không
phù hợp với văn minh của xã hội loài người đương đại; không phù hợp với ngôn từ
ngoại giao giữa các quốc gia. Nghị quyết này là một văn kiện chính thức của cơ
quan lập pháp một quốc gia, chính vì vậy, không thể mắc những lỗi sơ đẳng trong
quan hệ quốc tế như vậy. Lý giải duy nhất cho thái độ đó là sự thù địch, hằn học
không che dấu của những kẻ thù chính trị.
Thông tin đưa
ra trong Nghị quyết chứa đựng sự xuyên tạc lịch sử một cách trắng trợn.
Quy kết CNXH
là thâu tóm quyền lực và độc tài, chuyên chế. Họ sử dụng ngôn từ khiến cho người
đọc liên tưởng, đồng nhất CNXH với các chế độ tương tự chủ nghĩa phát xít. Đây
là sự bịa đặt trắng trợn và thô thiển đối với thực tế lịch sử.
Nhà nước là một
thực thể chính trị mang tính giai cấp sâu sắc và tập trung nhất. Không có giai
cấp nào tổ chức nhà nước mà không tập trung quyền lãnh đạo vào tay họ. Ngay nước
Mỹ, không có bất cứ cơ chế luật pháp nào cho phép những người vô sản có cơ hội
để trở thành người lãnh đạo đất nước. Vì vậy, các nước XHCN luôn bảo đảm quyền
lãnh đạo của đảng cộng sản, đảng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động đối
với xã hội là một tất yếu khách quan. Tuy nhiên, sự tập trung quyền lãnh đạo của
họ được hiến pháp (ý chí, nguyện vọng của đa số người dân) cho phép; tuân thủ
theo các quy định cụ thể của luật pháp nhà nước do quốc hội xây dựng nên. Tuyệt
đối không phải là việc thâu tóm quyền lực, bài trừ đối thủ một cách tự do, tùy
hứng, vô nguyên tắc.
Điển hình cho
chế độ độc tài là chế độ phát xít Đức. Chế độ đó ra đời từ tư tưởng cực hữu của
nhóm các nhà tư bản, đứng đầu là Hít le. Sau khi nắm được chính quyền, lực lượng
này đã xây dựng nhà nước Đức thành bộ máy độc tài, chuyên chế. Họ sử dụng các
biện pháp cưỡng chế, nô dịch xã hội về tư tưởng và lực lượng; đề cao vị trí
“thượng đẳng” của quốc gia, truyền bá tư tưởng dân tộc cực đoan; bài trừ, nô dịch
các quốc gia, dân tộc khác; cướp bóc tài nguyên, tài sản của các quốc gia khác…
Sau khi thất bại trong chiến tranh thế giới lần thứ II, các nhà lãnh đạo mang
tư tưởng phát xít và chịu trách nhiệm chính trong các cuộc xâm lược ở Đức, Ý,
Nhật và một số nước khác đã bị Tòa án quốc tế kết tội chống lại loài người và
trừng phạt nghiêm khắc. Đáng lưu ý, xuất thân của họ khi đi theo, phát triển lực
lượng phát xít; trở thành những nhà lãnh
đạo nhà nước phát xít, cơ bản họ là các nhà tư bản hoặc tầng lớp quý tộc của
các quốc gia tư bản.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét