Trước
cảnh nước mất, nhà tan, chứng kiến sự bóc lột dã man, tàn bạo của thực dân Pháp
và bè lũ tay sai, nỗi thống khổ cùng cực của nhân dân lao động; 112 năm trước
đây, vào ngày 5-6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành với lòng yêu
nước nồng nàn, căm thù giặc sâu sắc, đã quyết ra đi tìm đường cứu nước, cứu
dân; thực hiện khát vọng giải phóng dân tộc, đem lại cơm no, áo ấm cho đồng
bào. Quyết tâm cháy bỏng của Bác là: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc
tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”.
Bến
Nhà Rồng - chứng tích lịch sử về nơi Bác khởi đầu hành trình bôn ba, tìm đường
cứu nước của 112 năm trước vẫn còn đây. Con tàu Amiral Latouche Tréville đã đưa
Bác rời Tổ quốc, bắt đầu cuộc hành trình gần 30 năm “đầy sóng gió, đầy gian
nan, thử thách” để tìm con đường giải phóng dân tộc, cứu nước, cứu dân. Vào thời
điểm “vận mệnh dân tộc ngàn cân treo sợi tóc”, “tình hình đen tối như không có
đường ra”, nào ai biết Nguyễn Tất Thành là ai và số phận của người thanh niên
yêu nước này đã gắn với vận mệnh của một dân tộc như thế nào; nó quyết định lịch
sử của một con người đầy dũng khí với tầm nhìn xa, trông rộng đến kỳ lạ, lại vô
cùng sáng suốt với ý chí và nghị lực phi thường.
Với
sự phân tích thấu đáo, sâu sắc và sự nhạy cảm đặc biệt, Bác đã quyết định:
không đi sang nước Nhật theo con đường của phong trào Đông Du, không tìm về
châu Á mà đến nước Pháp - châu Âu, để tìm hiểu mọi điều bí ẩn, hàm chứa đằng
sau khẩu hiệu “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” và lời Tuyên bố “khai sáng cho dân tộc
Việt Nam” của những người đang cai trị dân tộc mình, gây đau tương, tang tóc
cho đồng bào mình. Quyết định đến châu Âu - Trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học
công nghệ và chính trị để tận mắt nhìn xem người châu Âu đã làm gì, làm như như
thế nào để thoát nghèo, trở nên giàu có, hùng mạnh, rồi trở về cứu giúp đồng
bào. Hành trang mà Bác đem theo chỉ có trái tim, đôi bàn tay lao động và một
tâm hồn cao đẹp, đầy ắp lòng yêu nước, thương dân và ý chí, nghị lực phi thường,
sự quyết tâm sắt đá: ra đi tìm con đường cứu nước, cứu dân.
Đặt
chân lên đất Pháp rồi sau đó, Bác đã qua nhiều nước của các châu lục Âu, Á,
Phi, Mỹ; đặc biệt, Bác đã dừng chân khá lâu ở Mỹ, Anh và Pháp. Trên chặng đường
bôn ba ấy, Bác đã nếm trải nhiều gian khổ, hiểm nguy, có lúc tưởng chừng không
thể vượt qua nhưng nghĩ về Tổ quốc, quê hương, về đồng bào ruột thịt đang bị
ngoại bang đô hộ, giầy xéo, Bác lại vùng lên với sức mạnh thần kỳ. Khó khăn,
gian khổ không làm Bác chùn bước, đe dọa, hiểm nguy không làm Bác sờn lòng, kiên
quyết không xa rời mục tiêu; mà trái lại, càng tôi luyện ý chí thêm kiên cường,
bản lĩnh thêm kiên định, vững vàng; càng hun đúc lòng yêu nước, thương dân; quyết
tâm giải phóng dân tộc.
Bác
đã dành thời gian, công sức để nghiên cứu, tìm hiểu giá trị tư tưởng, văn hóa
phương Đông, phương Tây; học hỏi kinh nghiệm cách mạng, tắm mình trong thực tiễn
đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản và thuộc
địa. Nhờ đó, Bác đã tự giác đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tiếp thu lý tưởng của
Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại; trở thành người chiến sĩ cộng sản kiên trung,
nhà hoạt động quốc tế xuất sắc, được đồng chí bạn bè quốc tế tin yêu, tôn trọng
và ngưỡng mộ.
Là
một trong những người sáng lập Đảng Xã hội Pháp, tham gia các hoạt động của những
người yêu nước Việt Nam tại Pháp; Bác đã dành thời gian tìm hiểu và thấm nhuần
sâu sắc nhu cầu cần thiết phải giải quyết các vấn đề dân tộc và thuộc địa và đặc
biệt, khi tiếp cận được với Luận cương của Lênin về vấn đề này, Bác đã thực hiện
mục tiêu, khát vọng giải phóng dân tộc theo sự chỉ dẫn của Luận cương Lênin. Thật
may mắn và hạnh phúc cho dân tộc ta, nhân dân ta là Bác đã tìm thấy con đường
đi cho cách mạng Việt Nam.
Kết
luận đầu tiên của Bác là: “Chủ nghĩa đế quốc, thực dân là cội nguồn của mọi đau
khổ cho giai cấp công nhân và nhân dân ở các nước chính quốc cũng như thuộc địa”;
“Chỉ có cách mạng vô sản mới là con đường giải phóng chúng ta”, “giúp chúng ta
thoát khỏi địa ngục trần gian và tội ác của quân xâm lược”. Vì vậy, “Chỉ có chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và
những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Nhận
thức rõ điều ấy, suốt 10 năm trời, từ 1920 đến 1930, Bác đã dày công truyền bá
chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam và phong trào cộng sản, công nhân quốc tế,
chuẩn bị về tư tưởng, lý luận và nhân sự cho sự ra đời của Đảng ta và mọi thắng
lợi của cách mạng Việt Nam.
Lịch
sử hơn 90 năm của cách mạng Việt Nam đã chứng minh sự lựa chọn con đường cách mạng
cho dân tộc của Bác là hoàn toàn đúng đắn. Đó là sự lựa chọn của lịch sử, của
dân tộc, của nhân dân ta; sự lựa chọn duy nhất đúng đắn, không thể đảo ngược.
Vì lẽ đó, chúng ta có được thành quả cách mạng to lớn, đầy ý nghĩa lịch sử; có
được cơ ngơi, tiền đồ, uy tín và vị thế quốc tế to lớn như ngày nay. Sự thật cuộc
sống hòa bình, độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân ta đã nói lên điều
sâu sắc ấy.
Ôn
lại hành trình cứu nước 112 năm về trước của Bác Hồ kính yêu, cán bộ, chiến sĩ
toàn quân cần khắc ghi mãi mãi vào khối óc, trái tim của mình lòng biết ơn vô hạn
đối với sự hy sinh to lớn mà cả cuộc đời Bác đã dành cho dân, cho nước; đặc biệt,
khoảng thời gian Bác đã trải qua trong gần 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước.
Ra
sức phấn đấu, thực hiện thắng lợi Cuộc vận động phát huy truyền thống, cống hiến
tài năng, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới; đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ
nhiệm vụ gì khi Tổ quốc cần, tổ chức phân công. Xin hứa với Bác kính yêu: Ra sức
học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Bác; hoàn thành xuất sắc mọi
nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó để mãi mãi xứng đáng với danh
hiệu cao quý: “Bộ đội Cụ Hồ” - Bộ đội của nhân dân.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét