Việc bảo mật
dữ liệu quốc gia trong kỷ nguyên số hiện nay đang trở thành một trong những mối
quan tâm hàng đầu của nhiều quốc gia. Thực tế cho thấy tình trạng để lộ bí mật
nhà nước không chỉ gây ra thiệt hại về kinh tế mà còn ảnh hưởng đến an ninh quốc
gia, trật tự an toàn xã hội. Chưa kể việc lộ bí mật nhà nước qua mạng internet
đang là một trong các hình thức bị các đối tượng phản động, thù địch triệt để lợi
dụng nhằm chống phá đất nước, chế độ.
Dữ liệu có
vai trò quan trọng đối với các quốc gia cũng như mỗi cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Hệ thống cơ sở dữ liệu của mỗi quốc gia được tạo lập, lưu trữ và xử lý sẽ truyền
tải nhiều thông tin đến người sử dụng, trong đó bao gồm cả những thông tin quan
trọng quyết định đến sự an toàn, ổn định và phát triển vững mạnh của một quốc
gia.
Khi các thông
tin trong hệ thống cơ sở dữ liệu này được xây dựng và lắp đặt đồng bộ, hiện đại
sẽ tạo ra kho dữ liệu phục vụ cho việc nghiên cứu, hoạch định các chủ trương,
chính sách, pháp luật, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội. Nhưng nếu không bảo
mật được thông tin, hệ thống dữ liệu này sẽ trở thành mục tiêu tấn công, chiếm
đoạt hay phá hoại của các thế lực thù địch và tội phạm công nghệ cao.
Việc bảo vệ
bí mật nhà nước được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản
lý thống nhất của Nhà nước; phục vụ nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát
triển kinh tế-xã hội, hội nhập quốc tế của đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia,
dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Theo đó, Luật
quy định bảo vệ bí mật nhà nước là trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức, cá
nhân.
Thực tiễn cho
thấy hệ thống dữ liệu tại Việt Nam thời gian qua luôn đặt trong tình trạng báo
động bởi nguy cơ tấn công mạng, bị lộ hay chiếm đoạt thông tin.
Tính đến
tháng 1/2023, Việt Nam có 77,93 triệu người sử dụng internet (chiếm 79,1% dân số),
trong đó có 70 triệu người dùng mạng xã hội, trong đó chủ yếu là F.ace.bo.ok
(66,20 triệu người). Các tỉnh, thành phố đều có các cổng thông tin điện tử, dịch
vụ công trực tuyến.
Tính đến
tháng 1/2023, Việt Nam có 77,93 triệu người sử dụng internet (chiếm 79,1% dân số),
trong đó có 70 triệu người dùng mạng xã hội, trong đó chủ yếu là F.ace.bo.ok
(66,20 triệu người).
Tuy nhiên,
bên cạnh những thuận lợi từ việc ứng dụng sự phát triển và sử dụng hiệu quả
internet thì những nguy cơ do việc lộ bí mật nhà nước qua mạng internet chiếm tỷ
lệ cao về số vụ (chiếm 66% số vụ).
Theo thống kê
của Bộ Công an trong giai đoạn từ 2015-2021 có hơn 48.500 lượt trang/cổng thông
tin điện tử có tên miền “.vn” của Việt Nam bị tin tặc tấn công, trong đó có hơn
4.000 cuộc tấn công vào các trang dữ liệu thuộc quyền quản lý của cơ quan nhà
nước; phát hiện ra hơn 350 vụ làm lộ, mất bí mật nhà nước trên không gian mạng.
Thống kê cũng
cho biết bí mật nhà nước bị lộ qua việc đăng tải công khai thông tin trên các
website và cổng thông tin, trang điện tử của các cơ quan nhà nước, ban, ngành,…
là phổ biến nhất, chiếm 57,7% trên tổng số vụ lộ bí mật nhà nước, trong đó tập
trung chủ yếu là cơ quan cấp cơ sở (cấp tỉnh và cấp huyện).
Nhiều văn bản
được các cơ quan này tải lên toàn văn dưới dạng file văn bản, file PDF, hoặc dạng
ảnh chứa nội dung thuộc danh mục bí mật nhưng lại không đóng dấu xác định độ mật
trên văn bản.
Bên cạnh đó
là việc sử dụng dịch vụ thư điện tử như Gmail, Yahoo Mail để gửi, nhận tài liệu
có chứa nội dung bí mật nhà nước (chiếm 1,6% trên tổng số vụ lộ, lọt bí mật
thông tin).
Cá biệt một số
cá nhân, tổ chức lập ra các trang mạng (website) công khai mua, bán, trao đổi
tài liệu như luận án, luận văn, đề tài khoa học có chứa thông tin thuộc bí mật
nhà nước.
Mặt khác một
số báo điện tử, trang thông tin điện tử khi đăng tin, bài đã cung cấp các số liệu
vẫn còn trong giai đoạn dự thảo đang được bàn thảo hay đăng tải toàn văn bản
đóng dấu đỏ của cơ quan quản lý nhà nước liên quan đến nội dung bài báo đề cập.
Bên cạnh đó,
việc để lộ bí mật nhà nước qua các trang mạng xã hội chiếm tới 9,3%, tiêu biểu
là F.ace.bo.ok, Zalo… cũng đang có chiều hướng gia tăng. Hiện trạng nêu trên
cho thấy mức độ đáng báo động trong vấn đề bảo mật thông tin.
Nâng cao nhận
thức về bảo vệ thông tin cá nhân trên không gian mạng
Lợi dụng sự
phát triển của các nền tảng mạng xã hội xuyên biên giới các tổ chức khủng bố, tổ
chức phản động cũng thường xuyên đăng tải những nội dung bịa đặt, có tính chất
bôi nhọ chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và rêu rao các thông tin sai
sự thật kèm theo những nhận định mang tính xuyên tạc nhằm kích động quần chúng.
Đồng thời,
các đối tượng chống phá dùng nhiều phương thức, thủ đoạn hòng tấn công vào hệ
thống mạng máy tính, các cổng thông tin điện tử để đánh cắp tài liệu bí mật nhà
nước, sau đó đăng tải trên các tài khoản mạng xã hội nhằm thu hút các lượt
tương tác, qua đó móc nối, lôi kéo hình thành các hội nhóm trá hình trên không
gian mạng.
Chỉ tính
riêng trong năm 2021, lực lượng chức năng của Việt Nam phát hiện có hơn 875 hội,
nhóm phức tạp liên quan đến an ninh quốc gia trên trang F.ace.bo.ok, trong đó hội
nhóm của các đối tượng, tổ chức phản động có hoạt động chống phá Việt Nam cực
đoan chiếm gần 20%. Các hội nhóm này luôn tìm cách để kích động trên không gian
mạng, kêu gọi người dân gây rối, biểu tình, bất hợp tác với chính quyền.
Cùng với đó,
từ bên ngoài, các tổ chức, đối tượng phản động, thiếu thiện chí không ngừng
tích cực hỗ trợ kinh phí để tập hợp lực lượng chống phá ở trong nước.
Các đối tượng
huy động mọi nguồn lực nhằm thu thập tin tức nội bộ, đặc biệt là các thông tin
về chiến lược phát triển kinh tế, chiến lược biển, kết quả công tác bảo đảm an
ninh, quốc phòng trên các địa bàn trọng điểm… để xuyên tạc, phát tán nhằm phá
hoại nội bộ, gây hoài nghi và suy giảm lòng tin của quần chúng nhân dân vào sự
lãnh đạo của Đảng, sự điều hành, quản lý của Nhà nước.
Có nhiều
nguyên nhân dẫn đến việc lộ, lọt bí mật nhà nước. Về nguyên nhân khách quan là
do hạ tầng kỹ thuật nhằm bảo vệ bí mật nhà nước được lưu trữ trong hệ thống mạng
máy tính tại một số cơ quan, đơn vị còn lạc hậu, chậm cập nhật, chưa đủ mạnh để
chống đỡ được các đợt tấn công mạng, gián điệp mạng của các nhóm tin tặc, phản
động.
Bên cạnh đó,
nguyên nhân chủ quan của việc để lộ bí mật nhà nước là do chưa có sự quan tâm
đúng mức của lãnh đạo các cơ quan, đơn vị về công tác bảo mật cũng như mất cảnh
giác, buông lỏng trong hoạt động lưu trữ, kiểm duyệt và sử dụng tài liệu mật. Một
số cán bộ thiếu cẩn trọng, tự ý sử dụng điện thoại thông minh kết nối mạng để
sao chụp và gửi thông tin thuộc dạng mật thông qua mạng di động, mạng xã hội.
Một bộ phận
người nghiên cứu trong các cơ sở đào tạo, cơ sở nghiên cứu chưa nhận thức rõ việc
đưa tài liệu mật trong các công trình nghiên cứu cho phép truy cập tại các hệ
thống thư viện mở hay chính các cán bộ thư viện thiếu trình độ vô tình đăng tải
các công trình có chứa tài liệu mật trên các website.
Cá biệt có một
số trường hợp vì bất mãn, hiềm khích, mâu thuẫn cá nhân cho nên đã cố tình để lộ
bí mật nhà nước mà mình nắm giữ hoặc tình cờ có được. Thực tế cho thấy các vụ lộ
bí mật nhà nước trong nhiều trường hợp đã để lại hậu quả nghiêm trọng, khiến lực
lượng chức năng gặp phải nhiều khó khăn trong công tác khắc phục.
Xây dựng “lá
chắn” trên không gian mạng
Từ thực trạng
về tình hình lộ bí mật nhà nước, nhất là việc để lộ bí mật nhà nước trên mạng
internet rất đáng báo động hiện nay đặt ra yêu cầu đối với các chủ thể trong việc
nêu cao ý thức, trách nhiệm và chủ động phòng ngừa và có những biện pháp nhằm
chống việc lộ bí mật nhà nước.
Mỗi cán bộ
trong các cơ quan, ban, ngành cần thường xuyên nâng cao nhận thức và ý thức
trách nhiệm về bảo đảm an ninh, an toàn thông tin trên môi trường mạng, nhất là
những thông tin thuộc hạng mục chưa được công bố; đồng thời cần gắn trách nhiệm
của thủ trưởng các cơ quan trong công tác bảo mật, đào tạo kỹ năng cho cán bộ sử
dụng công nghệ với yêu cầu bảo vệ bí mật nhà nước, coi đây là nhiệm vụ chính trị
quan trọng hàng đầu; bên cạnh đó, cần tiếp tục chú trọng nghiên cứu, ứng dụng
các giải pháp về khoa học công nghệ để bảo vệ bí mật nhà nước nhằm chống lộ bí
mật trên không gian mạng.
Công tác quản
lý, sử dụng, truyền đưa tài liệu chứa nội dung bí mật nhà nước cần được quy định
chặt chẽ trong các văn bản quy phạm pháp luật, trong đó bao gồm cả công tác xử
lý hành vi vi phạm đủ sức răn đe nhằm cảnh báo và chấn chỉnh hành vi của một bộ
phận cán bộ, đảng viên phải tuân thủ các quy định về bảo mật và chống lộ, lọt
bí mật.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét