Các
thế lực thù địch chống phá, xuyên tạc lịch sử nước ta cho rằng “Sự hao tổn
xương máu của dân tộc qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ là do
Đảng Cộng sản gây ra”(!) Phải chăng họ không có kiến thức về lịch sử? Chắc hẳn
không phải như vậy, có chăng là sự hiểu biết và cách nhìn nhận về lịch sử của
họ đã bị thiên lệch, cố tình bỏ qua những vấn đề căn bản trong xem xét, đánh
giá lịch sử.
Để
làm sáng tỏ vấn đề này, trước hết, phải làm rõ ranh giới giữa kẻ xâm lược với
người bị xâm lược, giữa phi nghĩa và chính nghĩa. Đặt vấn đề “sự hao tổn xương
máu của dân tộc” một cách chung chung là một kiểu lập lờ về sự không cần thiết
của hai cuộc kháng chiến chống xâm lược. Đất nước này, dân tộc này đã từng tồn
tại hàng ngàn năm. Sự tồn tại và vị thế có được của cả dân tộc, đem lại tư cách
chủ nhân thật sự của từng con người Việt Nam là nhờ có mồ hôi và máu của bao
thế hệ đã đổ xuống. Sự cống hiến, hy sinh ấy trở thành lẽ sống của người dân
Việt, cần được tôn vinh và ghi nhận. Những cuộc khởi nghĩa, những cuộc kháng
chiến chống xâm lược trong lịch sử dân tộc trước kia và gần đây hơn là hai cuộc
kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ là hành động tự vệ chính nghĩa của một dân tộc
độc lập. Nếu không có những kẻ xâm lược, tất không cần phải đặt ra vấn đề chống
xâm lược, và đương nhiên sẽ không có vấn đề hao tổn xương máu của dân tộc ta.
Kẻ lãnh trách nhiệm về sự hao tổn xương máu ấy phải là quân xâm lược và tay sai
của chúng.
Về
phía chúng ta, độc lập, tự do là lẽ sống. Độc lập, tự do thật sự - độc lập, tự
do trong đó nhân dân là người làm chủ đất nước. Đó tuyệt nhiên không phải là
thứ độc lập, tự do giả hiệu do kẻ xâm lược nặn ra, ban phát như một thứ bánh
vẽ. Độc lập, tự do của dân tộc ta, nhân dân ta chỉ có được bằng cuộc đấu tranh
với kẻ thù xâm lược và những kẻ cam tâm làm tay sai cấu kết với chúng. Sự hy
sinh xương máu để có được độc lập, tự do của dân tộc cũng là lẽ đương nhiên mà
mọi người Việt Nam yêu nước đều tự ý thức được, tự giác dâng hiến. Trong đội
ngũ ấy, những người cộng sản Việt Nam luôn là lực lượng tiên phong. Đó thật sự
là những người yêu nước nhất của dân tộc trong hai cuộc kháng chiến chống quân
xâm lược Pháp và Mỹ.
Vấn
đề tiếp theo cần khẳng định là: giữa chiến tranh và hòa bình, dân tộc ta, nhân
dân ta luôn lựa chọn hòa bình. Đó là mục tiêu, là con đường đỡ hao tổn xương
máu nhất, nếu có thể sử dụng được. Những người cộng sản Việt Nam luôn mong muốn
tìm kiếm con đường hòa bình để giành và giữ độc lập, thống nhất dân tộc. Nhưng
kẻ thù của dân tộc, của nhân dân ta lại muốn cai trị nước ta bằng mọi giá,
không chịu thừa nhận một nước Việt Nam độc lập, thống nhất. Do đó, mọi cơ hội
giải quyết sự đối đầu bằng hòa bình đều bị chối bỏ. Trước khi trở thành người
cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã từng gửi đến Hội nghị Vécxay bản yêu sách 8 điểm
với nội dung cốt lõi là Việt Nam được độc lập. Các nước đế quốc tham dự Hội
nghị này đã chối bỏ những yêu sách đó. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Việt
Nam giành độc lập, song quân xâm lược Pháp đã gây hấn trở lại. Lịch sử ghi nhận
Chính phủ Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần chìa bàn tay hòa bình
với Pháp, nhưng người Pháp không chấp nhận, bởi lẽ họ ưa dùng vũ lực để khuất
phục hơn là đối thoại hòa bình. Thời chống Mỹ cũng vậy, chính Mỹ đã không chịu
ký vào Hiệp định Giơnevơ (1954) để dễ bề phá vỡ nội dung Hiệp định đó. Trong
quá trình chiến tranh, đặc biệt là suốt cả thời gian diễn ra Hội nghị Pari về
Việt Nam, Mỹ luôn giữ lập trường ngoan cố không chịu thừa nhận một nước Việt
Nam độc lập, thống nhất, tự quyết định vận mệnh của mình. Chỉ đến khi đã leo
thang chiến tranh đến đỉnh điểm và thất bại cay đắng trong chiến dịch “Điện
Biên Phủ trên không”, Mỹ mới chịu ký Hiệp định Pari.
Như
vậy, lịch sử cho thấy nhân dân Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn mong muốn
hòa bình, mong chấm dứt sự hao tổn xương máu không những của người Việt Nam, mà
của cả nhân dân Pháp, nhân dân Mỹ. Nhưng một khi nền độc lập, tự do của dân tộc
bị kẻ xâm lược chà đạp, nhân dân Việt Nam, những người cộng sản Việt Nam sẵn
sàng chấp nhận hy sinh để giành lại và bảo vệ nền độc lập, tự do ấy. Điều đó
chẳng lẽ ai đó lại không hiểu, lại cố tình “quên” hoặc làm ngơ!
Không!
Chắc hẳn những điều đó họ đã biết, nhưng cố tình lãng quên sự thật lịch sử, cố
tình đổ lỗi cho Đảng Cộng sản Việt Nam, làm như chính họ mới là người công tâm,
đau xót trước sự “hao tổn xương máu của dân tộc”. Đó cũng là cách để họ không
những đạt mục đích “hạ bệ” vai trò to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lãnh
đạo hai cuộc chiến tranh, hơn thế nữa muốn kết tội những người cộng sản. Để bảo
vệ cho sự “đánh tráo” lịch sử của mình, họ còn viện dẫn rằng “nhiều nước không
cần đến Đảng Cộng sản vẫn giành được độc lập”. Đến đây thì mọi việc đã rõ: cái
mấu chốt là ai đó muốn loại Đảng Cộng sản ra khỏi đời sống xã hội hiện tại,
bằng cách bôi nhọ, hạ thấp vai trò của Đảng Cộng sản trong lịch sử. Mỗi dân tộc
đều tự viết nên lịch sử, có quyền tự quyết định hiện tại và tương lai của dân
tộc mình. Nền độc lập của mỗi dân tộc tuy có những điểm chung nhất định, nhưng
cũng có những điểm khác biệt, mà cái cơ bản nhất là nền độc lập ấy có thuộc về
đa số nhân dân hay không; quyền lực của đất nước có thật sự thuộc về nhân dân
hay không.
Lịch
sử dân tộc Việt Nam đã ghi nhận rằng, chính nhân dân Việt Nam đã thừa nhận và
tôn vinh vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tự giác đi theo Đảng, tự
giác chấp nhận gian khổ, hy sinh để giành và giữ độc lập dân tộc, giành tự do
thật sự cho chính mình. Mọi luận điệu muốn đổ lỗi, thậm chí muốn kết tội Đảng
Cộng sản Việt Nam, thực chất là đi ngược lại ý chí của nhân dân, đồng lõa với
kẻ thù của dân tộc - những kẻ phải chịu trách nhiệm trước lịch sử về sự hao tổn
xương máu của nhân dân ta trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
chống đế quốc Mỹ xâm lược.
HTB-K6
0 nhận xét:
Đăng nhận xét