Những cán bộ, đảng viên sa vào chủ nghĩa cá
nhân, mang nặng tư tưởng cá nhân chủ nghĩa trong mình là những người đã suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Trong mọi mặt công tác và cuộc
sống đời thường, họ không còn thấm nhuần đạo đức cách mạng, thực hiện cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư; không còn gương mẫu, tiền phong, thống nhất giữa
nói và làm; không còn xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật
trung thành của nhân dân như Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn.
Họ quên mất rằng “Đảng không phải là một tổ chức
để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ
quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”, nên, trong họ cái tôi luôn được đề cao. Họ
luôn coi mình là trung tâm, có quyền hưởng thụ, chăm chăm tính đếm lợi ích của
cá nhân mình và người thân, dòng họ mình mà không màng đến lợi ích của Tổ quốc
và nhân dân. Vì thế, khi đã để những chứng bệnh cá nhân chủ nghĩa nảy sinh, thì
dần dần tinh thần đấu tranh và tính tích cực của họ bị kém sút, chí khí anh
dũng và phẩm chất tốt đẹp của người cách mạng cũng kém sút; họ quên rằng tiêu
chuẩn số một của người cách mạng là sống có lý tưởng, vì lý tưởng của Đảng mà
hành động.
Trong công việc, vì không muốn “lo trước thiên
hạ, vui sau thiên hạ” và tự cho mình quyền hành động tự do, vô tổ chức, vô kỷ
luật, nên họ độc đoán, chuyên quyền và mắc các trọng bệnh là “con đẻ” của chủ
nghĩa cá nhân như: Bệnh chủ quan, bệnh hẹp hòi, bệnh khai hội, bệnh nể nang, bệnh
tham lam, bệnh lười biếng, bệnh kiêu ngạo, bệnh hiếu danh, thiếu kỷ luật, óc hẹp
hòi, óc địa phương, óc lãnh tụ, bệnh “hữu danh vô thực”, kéo bè kéo cánh; bệnh
cận thị, bệnh tị nạnh, bệnh xu nịnh, a dua, bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy, bệnh
nóng tính, bệnh lụp chụp... Những chứng tật bệnh này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
chỉ rõ trong nhiều bài viết, bài nói và bài phát biểu của mình; và cũng theo
Người, những “bệnh cá nhân” này không chỉ gây bức xúc, làm suy giảm niềm tin của
quần chúng nhân dân với những cán bộ, đảng viên đã và đang suy thoái, mà còn đe
dọa vai trò lãnh đạo của Đảng.
Trong quan hệ với quần chúng, họ tự cho rằng
“mình cái gì cũng giỏi, họ xa rời quần chúng”. Họ không muốn học hỏi quần chúng
mà chỉ muốn làm thầy quần chúng. Họ mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh”, nên đóng cửa,
ngồi bàn giấy, xây dựng kế hoạch, viết chương trình rồi dùng mệnh lệnh “cột vào
cổ dân chúng, bắt dân chúng theo”, ép dân chúng làm. Vì tự cho mình quyền là
“quan phụ mẫu”, nên những cán bộ, đảng viên để chủ nghĩa cá nhân chi phối này
thậm chí trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện còn không bàn bạc, không giải
thích với quần chúng; không cho quần chúng phát biểu, tham gia ý kiến đóng góp
mà chỉ “bắt buộc dân chúng làm theo mệnh lệnh” của mình. Vì tự cho mình quyền
được “ăn trên ngồi trốc”, nên những vị “cha mẹ dân” này không cần biết đến cơ sở,
cũng không quan tâm đến tâm tư, nguyện vọng, ý kiến xác đáng của quần chúng...
khiến “quần chúng không tin, không phục, càng không yêu họ. Chung quy là họ
không làm nên trò trống gì”.
Tất cả những chứng bệnh nêu trên đều do chủ
nghĩa cá nhân sinh ra; đều xuất hiện ở những người suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Tất cả những “bệnh cá
nhân” này dường như không chững lại mà còn tiếp tục nảy nở cùng với thời gian.
“Chúng” đã, đang và sẽ xuất hiện với những biểu hiện mới, khi công khai, khi ngấm
ngầm, song dù ở dưới dạng nào thì “chúng” cũng đều trái với đạo đức cách mạng,
trái với tinh thần cần, kiệm, liêm, chính và vì thế “chúng” đều vi phạm Điều lệ
Đảng, kỷ luật đảng và các nguyên tắc của một Đảng Mácxít - Lêninnít chân chính,
cách mạng. Tất cả những “trọng bệnh” này đều đòi hỏi mỗi người cán bộ, đảng
viên phải nghiêm túc tự soi để nhận diện đúng và tự sửa, tự khắc phục bằng những
phương pháp hữu hiệu theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh./.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét