Hiện nay, có một
số nhà khoa học nhân danh “tự do học thuật” đã lớn tiếng rêu rao luận điểm “quyền
con người là phi giai cấp” làm cho không ít người mơ hồ về vấn đề này. Thực chất,
những người đưa ra luận điểm này cố tình đánh tráo khái niệm, đã “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” xa rời bản chất giai cấp công nhân; phá vỡ sự thống nhất giữa
tính đảng và tính khoa học trong nghiên cứu khoa học. Ý đồ sâu xa hơn, các “học
giả” đưa ra luận điểm “quyền con người là phi giai cấp” nhằm phủ nhận quan điểm
của Đảng ta về quyền con người.
Thực tiễn lịch
sử đã chứng minh, trong xã hội có phân chia giai cấp đối kháng, bản chất quyền
con người và thực hiện quyền con người luôn mang tính giai cấp sâu sắc. Bởi lẽ,
con người sinh ra vốn đã có đặc quyền, đó là quyền tự nhiên. Các quyền này tồn
tại dưới dạng những nhu cầu, do chính phẩm giá con người quy định. Nhưng để trở
thành quyền, những nhu cầu ấy cần phải được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Song,
pháp luật luôn gắn liền với nhà nước, luôn bị chi phối bởi các thể chế chính trị
cụ thể. Cho nên, nội dung của pháp luật luôn nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp
thống trị trong xã hội. Khi pháp luật thừa nhận quyền của giai cấp thống trị
cũng đồng thời hạn chế quyền của giai cấp đối lập, không thể có quyền trừu tượng
siêu giai cấp, quyền con người phi giai cấp chỉ là ảo tưởng.
Trong phạm vi
quốc gia, quan điểm giai cấp thể hiện ở các chính sách bảo vệ hệ thống chính trị
và chế độ xã hội hiện hữu, bảo vệ lợi ích giai cấp cầm quyền và các giai cấp, tầng
lớp xã hội đã đấu tranh bảo vệ xã hội đó. Trên phạm vi quốc tế, tính giai cấp của
quyền con người được thể hiện trong cuộc đấu tranh giữa lực lượng cách mạng, tiến
bộ với các lực lượng phản động, phản tiến bộ. Trong thế kỷ XX, tính giai cấp của
quyền con người được biểu hiện bằng cuộc đấu tranh giữa hệ thống tư bản chủ
nghĩa với hệ thống xã hội chủ nghĩa (XHCN). Hiện nay, cuộc đấu tranh này biểu
hiện dưới hình thức thúc đẩy sự tiến bộ xã hội và đấu tranh chống lại chiến lược
“diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của thế lực phản động đối với các nước đi
theo con đường XHCN và độc lập dân tộc.
Trong xã hội Việt
Nam, tính giai cấp của quyền con người thống nhất với tính nhân loại, tính phổ
cập của quyền con người. Điều đó đã được thể hiện rõ trong các văn kiện pháp lý
quan trọng như: Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, Hiến pháp các năm 1946, 1959,
1980, 1992 và 2013, cùng với hơn 13.000 văn bản quy phạm pháp luật. Đặc biệt,
Hiến pháp năm 2013 đã dành hẳn chương II để hiến định về quyền con người, quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Hiến pháp năm 2013 là dấu mốc quan trọng trong
việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam, vì Hiến pháp đề cập toàn diện các quyền
con người và cách thức tổ chức, bộ máy bảo đảm và bảo vệ quyền con người. Đến
nay, Việt Nam đã là thành viên của hầu hết điều ước quốc tế chủ yếu về quyền
con người, trong đó có hai công ước quốc tế về quyền con người năm 1966. Theo
quy định của Luật Nhân quyền quốc tế, khi điều ước quốc tế có hiệu lực đối với
các quốc gia thành viên thì quốc gia phải tận tâm thực hiện điều ước, theo
nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ và thực hiện điều ước quốc tế.
Như vậy, ở Việt
Nam, quyền con người của tất cả mọi người đều được tôn trọng và bảo đảm, không
có sự phân biệt giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, giới tính. Điều 16 Hiến
pháp năm 2013 hiến định: “1. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. 2. Không
ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”.
Thực chất bảo đảm quyền con người ở Việt Nam nằm trong mục tiêu xây dựng xã hội
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Đại hội XIII của
Đảng đã khẳng định nhất quán phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Cốt lõi của việc thực hiện và bảo đảm quyền
con người là trong mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước luôn "lấy dân làm gốc”. Trong tác phẩm “Một số vấn đề lý luận, thực
tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Như
vậy có thể khẳng định rằng, quyền con người là thành quả phát triển lâu dài của
lịch sử nhân loại, là giá trị chung của các dân tộc. Theo quan điểm của Chủ
nghĩa Mác-Lênin, quyền con người là một phạm trù lịch sử và biến đổi trong lịch
sử; là kết tinh của xã hội loài người trên 5 phương diện: Tái sản xuất vật chất,
tinh thần, con người, nhu cầu và ý thức. Suy cho cùng, quyền con người gồm các
quyền sống, quyền lao động và quyền tự do. Các quyền này thể hiện 3 phương diện
cơ bản nhất của đời sống xã hội của con người: Con người trước hết phải được tồn
tại (quyền sống); con người phải được hoạt động (quyền lao động) và con người
phải được khẳng định, được phát triển (quyền tự do). Quyền con người gắn với
nhà nước và pháp luật, giành lấy quyền con người là mục tiêu cơ bản của cách mạng
XHCN.
Ngày nay, quyền
con người được xem là thước đo sự tiến bộ và trình độ văn minh của các xã hội,
không phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển và bản sắc văn hóa. Đồng
thời, quyền con người chứa đựng những giá trị chung toàn nhân loại, nhưng chỉ
trong điều kiện độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; các quyền sống, quyền lao
động, quyền mưu cầu hạnh phúc mới bảo đảm cho mỗi người và cho mọi dân tộc.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét